Thực trạng bảo quản lạnh sâu mảnh xương sọ để ghép tự thân tại Labo bảo quản mô – Trường Đại học Y Hà N ội từ 2002 – 2010

Thực trạng bảo quản lạnh sâu mảnh xương sọ để ghép tự thân tại Labo bảo quản mô – Trường Đại học Y Hà N ội từ 2002 – 2010

Tình hình tai nạn giao thông, tai nạn lao động gây chấn thương sọ não ở nước ta đang gia tăng đến mức báo động. Theo thống kê của Uỷ ban An toàn giao thông quốc gia, số vụ tai nạn giao thông đường bộ từ năm 2002 đến năm 2010 có giảm nhưng số người tử vong giảm không đáng kể (năm 2002 là 19.852 vụ, tử vong 11.319 người; năm 2010 là 14.442 vụ, tử vong 11.449 người) [22]. Từ 15.12.2007 chính phủ đã có quy định đội mũ bảo hiểm bắt buộc đối với người khi tham gia giao thông, số vụ tai n ạn có giảm nhưng số người bị thương và tử vong do chấn thương sọ não vẫn không cải thiện được nhiều [16]. Mỗi năm, hàng chục nghìn trường hợp phải phẫu thuật, trong đó đa phần phải mở hộp sọ giải áp. Bên cạnh nguyên nhân mở hộp sọ giải áp do tai nạn còn có các nguyên nhân khác như u não, phình mạch não, dị dạng mạch máu não… Điều đặc biệt là các mảnh xương sọ lấy ra trong phẫu thuật giải áp không thể lắp lại được ngay mà ph ải bảo quản tạm thời ch ờ ghép lại cho bệnh nhân sau này nhằm khắc phục tình trạng khuyết sọ. Việc lắp lại mảnh xương không những duy trì chức năng bảo vệ não, mà còn đảm bảo tính thẩm mỹ cho bệnh nhân.

Trước đây, mảnh xương thường được bảo quản tạm thời dưới da bụng hoặc da đầu. Tuy nhiên, biện pháp này bắt buộc bệnh nhân phải trải qua hai lần phẫu thuật: một là ph ẫu thuật để vùi mảnh xương ngay sau phẫu thuật giải áp; hai là lấy mảnh xương ra khi ghép lại. Bên cạnh đó, quá trình phẫu thuật có thể xẩy ra nhiều biến chứng, đặc biệt là nhiễm trùng. M ảnh xương để dướ i da bụng lâu ngày có thể bị ăn mòn, di chuyển, gây khó ch ịu cho bệnh nhân.

Đã có rất nhiều các nghiên cứu thực nghiệm sử dụng các vật liệu để tạo hình vòm sọ: Vật liệu sinh học như titan, gốm, xi măng sinh học, vật liệu tổng hợp composite…; hoặc sử dụng xương tự thân (xương mào chậu, sụn sườn). Tuy nhiên, thực tế cho thấy mảnh xương sọ của chính bệnh nhân được bảo quản lạnh sâu là loại vật liệu phù hợp trong điều kiện ở nước ta hiện nay. Năm 1999, Trung tâm bảo quản mô -Trường Đào tạo cán bộ y tế TP Hồ Chí Minh nay là Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch được thành lập và 3 năm sau đó (2002) Labo bảo quản mô – Trường Đại h ọc Y Hà Nội ra đời. Cả 2 trung tâm đã và đang nghiên cứu, ứng dụng qui trình bảo quản lạnh sâu để bảo quản các mảnh xương sọ. Tại Labo bảo quản mô – Trường Đại học Y Hà Nội trong 8 năm áp dụng, đã có hơn 3000 mảnh xương sọ được bảo quản, trong đó hơn 2000 mảnh đã được ghép trả lại cho bệnh nhân.

Bảo quản lạnh sâu mảnh mô xương sọ để ghép lại tự thân cho các bệnh nhân mở nắp hộp sọ giải áp là một phương pháp đã được áp dụng từ lâu trên thế giới. Tuy nhiên, đây lại phương pháp mới ở nước ta. Để có những số liệu nhằm đánh giá hoạt động của labo, đồng thời xây dựng kế hoạch hoạt động và khuyến cáo cán bộ y tế và bệnh nhân hiện đang áp dụng qui trình bảo quản lạnh sâu mảnh mô xương sọ, chúng tôi tiến hành đề tài: “Thực trạng bảo quản lạnh sâu mảnh xương sọ để ghép tự thân tại Labo bảo quản mô – Trường Đại học Y Hà N ội từ 2002 – 2010”.

Mục tiêu của đề tài :

Đánh giá tình hình bảo quản lạnh sâu mảnh xương sọ tại Labo bảo quản mô – Trường Đại học Y Hà Nội từ năm 2002- 2Ũ1Ũ.

 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment