THựC TRạNG CHẩN ĐOáN Và ĐIềU TRị U TRựC TRàNGTạI 12 TỉNH BIÊN GIớI Và MIềN NúI PHíA BắC 6 THáNG ĐầU NĂM 2009
THựC TRạNG CHẩN ĐOáN Và ĐIềU TRị U TRựC TRàNGTạI 12 TỉNH BIÊN GIớI Và MIềN NúI PHíA BắC 6 THáNG ĐầU NĂM 2009
TRỊNH HỒNG SƠN, NGUYỄN THÀNH KHIấM,
NGUYỄN QUỐC HÙNG, VÀNG A SÀNG, ĐINH NGỌC DŨNG,
VŨ ĐỨC MẠNH, Lề VĂN NHAY, HOÀNG THẾ HẠNH
ĐẶT VẤN ĐỀ
U trực tràng là các khối u ở đoạn bóng trực tràng tính từ chỗ nối xích ma- trực tràng cho tới đường lược. Khối u trực tràng chủ yếu là ung thư trong đó 97% là
u biểu mô tuyến. Đây là loại ung thư thường gặp ở đường tiêu hóa. Tỷ lệ gặp ở nam cao hơn nữ (nam/nữ là 1.5). Bệnh ít gặp ở người trẻ dưới 40 tuổi (2.5%),
gặp nhiều ở tuổi 45 và tăng dần theo lứa tuổi. U trực tràng phần lớn được chẩn đoán ở giai đoạn muộn do bệnh tiến triển âm thầm và người bệnh thường không chú ý đến các triệu chứng ban đầu.
Nhiều trường hợp thầy thuốc dễ dàng với chẩn đoán là trĩ, kiết lỵ mà bỏ qua động tác thăm trực tràng, soihậu môn- trực tràng, những động tác thăm khám đơn giản nhưng lại giúp chẩn đoán được hầu hết các trường hợp. Là một bệnh lý thường gặp do đó các phác đồ chẩn đoán và điều trị đã được xây dựng rõ ràng. Cũng như các bệnh lý các khối u khác một trong những mấu chốt quan trọng trong chẩn đoán và điều trị là các phương tiện chẩn đoán hình ảnh và giải phẫu bệnh. Tuy nhiên trong điều kiện trang thiết và nhân lực ở các cơ sở y tế vùng sâu vùng xa việc áp dụng quy trình chẩn đoán và điều trị chuẩn còn gặp nhiều khó khăn. Nghiên cứu này nhằm đánh giá thực trạng chẩn đoán và điều trị u trực tràng tại 12 bệnh viện đa khoa (BVĐK) tỉnh biên giới và miền núi phía bắc Việt Nam: Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hà Giang, Lào Cai, Tuyên Quang, Yên Bái, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Kạn, Quảng Ninh trong thời gian 1.1.2009 đến hết 30.6.2009
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất