Thực trạng hoạt động y tế trường học tại các trường phổ thông Việt Nam
Theo báo cáo tổng hợp tình hình y tế trường học năm 2002 của Bộ Y tế, chỉ có 44/61 tỉnh thành phố có báo cáo về y tế trường học, trong đó 40/61 tỉnh thành có ban chỉ đạo cấp tỉnh theo hướng dẫn của liên Bộ Y Tế và Bộ Giáo dục và Đào tạo, 30/61 tỉnh có văn bản liên ngành y tế – giáo dục hướng dẫn các cấp thực hiện [7]. Chưa có tỉnh nào có đủ ban chỉ đạo y tế trường học cấp huyện. Các hoạt động y tế trường học triển khai chưa nhiều, nơi có triển khai cũng chỉ có một số nội dung như tạo phong trào xanh sạch đẹp, cung cấp nước uống cho học sinh, các công trình vệ sinh có tiến bộ nhưng cũng chỉ đạt khoảng 50% yêu cầu, công tác khám sức khoẻ định kỳ, quản lý hồ sơ sức khoẻ hầu hết chưa thực hiện theo quy định. Toàn quốc chưa có số liệu chính thức về các bệnh trường học như cận thị và cong vẹo cột sống ở học sinh [6],[7]. Chính vì vậy, nghiên cứu một cách có hệ thống về hoạt động y tế trường học tại nước ta là một nhiệm vụ cần thiết, nó giúp cho các nhà quản lý và hoạch định chính sách đẩy mạnh các hoạt động y tế trường học nhằm nâng cao sức khỏe cho học sinh trong thời gian tới.
Bài báo này là một phần kết quả trong đề tài nghiên cứu cấp Bộ 2007 – 2009 nhằm mục tiêu:
Mô tả thực trạng hoạt động về y tế trường học tại các trường phổ thông ở Việt Nam hiện nay (năm 2008).
Nghiên cứu được tiến hành tại 3 vùng (thành thị, đồng bằng và miền núi) tại 3 tỉnh đại diện cho 3 vùng miền của cả nước (Phú Thọ, Quảng Bình và Đồng Nai). Mục tiêu: mô tả thực trạng hoạt động về y tế trường học tại các trường phổ thông ở Việt Nam năm 2008. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: áp dụng nghiên cứu cắt ngang (định tính và định lượng) để phỏng vấn 355 các cán bộ y tế học đường của trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông trong 9 huyện thuộc 3 tỉnh (Phú Thọ, Quảng Bình, Đồng Nai) của 3 miền (Bắc, Trung, Nam) và cho 3 vùng (miền núi, đồng bằng và thành thị). Toàn bộ báo cáo, số liệu sổ sách về hoạt động YTTH từ năm 2001 – 2006 tại các trường phổ thông điều tra cũng được thu thập. Kết quả: hoạt động mà cán bộ Y tế trường học (YTTH) đã và đang thực hiện không nhiều, chiếm tỷ lệ từ 13,2% đến 71,6% tổng số cán bộ YTTH đã tham gia nghiên cứu. Ba hoạt động được cán bộ YTTH lựa chọn nhiều nhất là sơ cấp cứu (71,6%), giáo dục sức khỏe cho học sinh (51,8%) và khám sức khỏe định kỳ (47,6%). Đặc biệt có rất ít cán bộ YTTH tham gia hoạt động phòng chống cong vẹo cột sống và phòng chống cận thị học đường (chỉ có 13,2% và 19,7%). Nhìn chung các hoạt động YTTH được thực hiện nhiều hơn ở khu vực thành thị và đồng bằng so với khu vực miền núi (p < 0,05). Hoạt động mà nhiều cán bộ YTTH không có khả năng thực hiện nhiều nhất là khám và phát hiện các bệnh trường học (cong vẹo cột sống, cận thị). Hoạt động có tỷ lệ % cán bộ YTTH không có khả năng thực hiện thấp nhất là lập hồ sơ theo dõi sức khỏe học sinh (11,2% tổng số điều tra). Kết luận: các hoạt động YTTH đã và đang thực hiện tại trường phổ thông là sơ cấp cứu, giáo dục sức khỏe cho học sinh và khám sức khỏe định kỳ. Rất ít cán bộ YTTH tham gia thực hiện hoạt động phòng chống cong vẹo cột sống và phòng chống cận thị học đường. Hầu hết cán bộ YTTH không có khả năng thực hiện các hoạt động YTTH, đặc biệt là các hoạt động về khám và phát hiện các bệnh trường học.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích