THỰC TRẠNG NHIỄM GIUN SÁN TẠI XÃ THU NGẠC, HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

THỰC TRẠNG NHIỄM GIUN SÁN TẠI XÃ THU NGẠC, HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

Bệnh giun sán phổ biến rộng khắp ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới, đặc biệt là các nước đang phát triển. Trên thế giới có hơn 1,4 tỷ người nhiễm giun đũa; có 1,2 tỷ người nhiễm giun tóc; có hơn 1,3 tỷ người nhiễm giun móc; có trên 40 triệu người nhiễm sán lá và có 100 triệu người nhiễm sán dây và ấu trùng sán lợn [9].

Bệnh giun sán là bệnh ký sinh trùng phổ biến nhất ở Việt Nam. Không những các bệnh giun truyền qua đất phổ biến do điều kiện khí hậu nóng ẩm với tập quán sinh hoạt, vệ sinh, ăn uống và canh tác còn lạc hậu, mà các bệnh sán truyền qua thức ăn cũng lưu hành ở nhiều địa phương do tập quán ăn thức ăn chưa nấu chín.

Theo nghiên cứu của Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung Ương đã điều tra giun đường ruột trên 30 tỉnh trong cả nước, tỷ lệ nhiễm giun đũa ở miền Bắc cao hơn miền Nam, có nhiều nơi trên 90%, tỷ lệ nhiễm giun tóc ở miền Bắc cũng cao hơn miền Nam và có nơi trên 70%, tỷ lệ nhiễm giun móc có tỷ lệ nhiễm cao ở nhiều nơi trong cả nước có nơi trên 60%, thậm chí có nơi 85% (Lào Cai) [1]. Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung Ương đã xác định ít nhất tại 19 tỉnh có bệnh sán lá gan nhỏ lưu hành, có nơi tỷ lệ nhiễm tới 37% (Nam Định) [5, 6]; ít nhất ở 27 tỉnh có bệnh sán lá gan lớn, có nơi tỷ lệ nhiễm 11% [4, 5]; 8 tỉnh có bệnh sán lá phổi lưu hành, có nơi tỷ lệ nhiễm tới 15% (Sơn La) [2, 7]; sán lá ruột lớn phân bố ở ít nhất 8 tỉnh và sán dây/ấu trùng sán lợn phân bố ít nhất ở 50 tỉnh, có nơi tỷ lệ nhiễm sán dây 12% và nhiễm ấu trùng sán lợn 5,7% [3, 8].

Phú Thọ là tỉnh trung du và miền núi, có nhiều dân tộc sinh sống. Huyện Thanh Sơn là huyện miền núi, nhiều xã có dân tộc ít người chiếm đa số, cuộc sống còn nhiều khó khăn, tập quán canh tác còn lạc hậu, vệ sinh còn thấp, đặc biệt còn thói quen ăn thức ăn chưa nấu chín như gỏi cá, cua nướng, thịt sống… là điều kiện thuận lợi cho giun sán lưu hành và gây ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ cộng đồng.

Để góp phần phòng chống các bệnh giun sán có  hiệu  quả  tại  tỉnh  Phú  Thọ  nói  chung  và  tại huyện Thanh Sơn nói riêng, cần điều tra xác định tỷ lệ nhiễm các loại giun sán ở một xã trong huyện để có cơ sở dữ liệu lập kế hoạch sát với thực tiễn. Đề tài này được thực hiện với mục tiêu:

Mô tả thực trạng nhiễm các loại giun sán tại xã Thu Ngạc, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

II. ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Điểm nghiên cứu

Xã Thu Ngạc, huyện Thanh Sơn, Phú Thọ là xã  miền  núi  vùng  sâu,  vùng  xa  của  tỉnh,  cách huyện lỵ Thanh Sơn 20 km về phía Tây – Bắc và cách thị xã Phú Thọ 50 Km về phía Tây.

Dân số toàn xã có 5.300 người, trong đó dân tộc Mường chiếm 98%, dân tộc Kinh 2% và 70 % số hộ gia đình có hố xí nhưng 100% hố xí không hợp vệ sinh.

Bệnh giun sán là bệnh ký sinh trùng phổ biến nhất ở Việt Nam, sự phân bố của từng loài khác nhau giữa các địa phương. Vì vậy, việc điều tra cơ bản về giun sán là cần thiết. Mục tiêu: Mô tả thực trạng nhiễm các loại giun sán tại xã Thu Ngạc, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Phương pháp: Xét nghiệm phân bằng phương pháp Kato – Katz cho cộng đồng dân cư xã Thu Ngạc, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Kết quả: Xã Thu Ngạc có 98% là dân tộc Mường, 70% có hố xí nhưng 100% hố xí không hợp vệ sinh. Xét nghiệm phân cho 604 người, phát hiện 8 loài giun sán. Kết luận: Tỷ lệ nhiễm giun sán chung là 90,7%, trong đó nhiễm giun đũa 60,9%, nhiễm giun tóc 49%, nhiễm giun móc 33,6%, nhiễm sán lá gan nhỏ 16,4%, nhiễm sán lá ruột nhỏ 4,3%, nhiễm sán lá ruột lớn 1,2%, nhiễm sán lá phổi 0,5% và nhiễm sán dây 10,4%.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment