Thực trạng nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học dân tộc tại 4 xã vùng III thuộc hai tỉnh Tây Nguyên năm 2008
Nghiên cứu 775 học sinh tiểu học ở 4 xã vùng III của 4 dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên cho thấy: tỷ lệ nhiễm giun chung khá cao 64,8%, trong đó giun đũa 49,9%, giun móc 22,1% và giun tóc có tỷ lệ rất thấp. Tỷ lệ nhiễm giun giữa các dân tộc không có sự khác biệt. Tỷ lệ đơn nhiễm rất cao từ 67,9% đến 79,4%. Tỷ lệ nhiễm hai loại rất thấp từ 19,8% đến 25,3%. Tỷ lệ đơn nhiễm và đa nhiễm không khác nhau giữa các dân tộc. Cường độ nhiễm giun tại điểm nghiên cứu thấp, giun đũa có cường độ từ 493,36-613,68 trứng/gram phân, giun tóc và giun móc rất thấp. Cường độ nhiễm giun không khác nhau giữa các dân tộc.
Bệnh giun truyền qua đất (Soil-transmitted-helminth infections) là bệnh có ở hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt khá phổ biến và chiếm tỉ lệ cao ở các nước đang phát triển trong vùng nhiệt đới và cận nhiết đới. Trong các bệnh giun truyền qua đất phổ biến là các loại giun đũa, giun tóc và giun móc/mỏ. Theo tổ chức y tế thế giới, trên toàn cầu có khoảng 1 tỉ người nhiễm giun đũa, 500 triệu người nhiễm giun tóc, 900 triệu người nhiễm giun móc và khoảng 100.000 người chết hằng năm do các bệnh về giun gây nên.
Theo báo cáo tổng hợp từ các quốc gia khu vực châu Á, Việt Nam là quốc gia có số người bị nhiễm giun, sán cao nhất. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (2006) Việt Nam có trên 65 triệu người nhiễm giun đũa, giun tóc, giun móc/mỏ; bệnh phổ biến khắp 64 tỉnh thành trên toàn quốc. Ước tính trung bình trong mỗi người Việt Nam có 8 giun đũa, 17 giun móc và 32 giun tóc sống ký sinh. Trong đó, tỷ lệ mắc bệnh nhiều nhất là trẻ em.
Tại Đắk Lắk, theo kết quả nghiên cứu của Ngô Thị Tâm (2005) [3]. Nguyễn Xuân Thao và CS (2006) [4] cho thấy tỷ lệ nhiễm giun chung ở người dân tộc Ê đê khá cao 58,5% – 76,36%; trong đó nhiễm giun đũa 29,5% – 42,08%, giun tóc 1,2% – 39,22% và giun móc/mỏ 29,35% – 68,5%. Theo Phan Văn Trọng (2002) [7] tỷ lệ nhiễm giun móc/mỏ ở người dân tộc thiểu số tỉnh ĐắkLắk là 61,3%.
Nhằm triển khai phòng chống bệnh GTQĐ cho học sinh người dân tộc ở Tây Nguyên, việc tiến hành nghiên cứu thực trạng nhiễm GTQĐ ở học sinh vùng sâu, vùng xa của 2 tỉnh Đắk Lắk và Gia Lai là hết sức cần thiết. Chính vì vậy đề tài nghiên cứu là “Thực trạng nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học dân tộc tại 4 xã vùng III thuộc hai tỉnh Tây Nguyên năm 2008” với các mục tiêu sau:
1. Xác định tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học dân tộc Tây Nguyên.
2. Xác định cường độ nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học dân tộc Tây Nguyên.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CứU
1.1. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh người dân tộc Tây Nguyên ở các trường tiểu học.
1.2. Địa điểm nghiên cứu: Dựa theo danh sách các trường học của Sở giáo dục của hai tỉnh chúng tôi chọn được 4 xã thuộc vùng 3 ở hai tỉnh – nơi có trên 90% là học sinh dân tộc thiểu số:
– Tại tỉnh Đăk Lăk có hai xã:
+ Xã Krông Na huyện Buôn Đôn đại diện cho dân tộc M’nông.
+ Xã Đoàn Kết huyện Buôn Hồ đại diện cho dân tộc Ê đê.
– Tại tỉnh Gia Lai có hai xã:
+ Xã Hà Bầu huyện Đăk Đoa đại diện cho dân tộc Jrai.
+ Xã Glar huyện Đăk Đoa đại diện cho dân tộc Bahnar Đây là những xã thuộc vùng III theo phân loại của Ủy Ban Dân tộc Trung Ương là vùng chủ yếu đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, tương đồng về tập quán canh tác, điều kiện kinh tế gia đình, văn hóa chưa thay đổi nhiều qua thời gian và còn nhiều tập tục lạc hậu.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích