Thực trạng nhiễm giun truyền qua đất trong cộng đồng người dân tộc ê đê tại xã Ea Tiêu, tỉnh Đắk Lắk

Thực trạng nhiễm giun truyền qua đất trong cộng đồng người dân tộc ê đê tại xã Ea Tiêu, tỉnh Đắk Lắk

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) 2006, ước tính có khoảng hơn 2 tỷ người trên thế giới bị nhiễm giun truyền qua đất (ba loại chính là giun đũa,  giun tóc  và  giun móc/mỏ),  135.000 người chết  và  800 triệu  học  sinh bị nhiễm  [3]. Bệnh giun truyền qua đất phổ biến ở vùng nhiệt đới và cận  nhiệt  đới;  đặc  biệt  những  nước  đang phát triển. Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nhiễm  giun truyền  qua đất  cao, tùy  từng  vùng, miền  từ  50 – 97% [8]. Tại  Đắk  Lắk  tỷ  lệ  nhiễm giun truyền qua đất 43,12%; ở nhóm tuổi 1 – 4 tuổi có  tỷ  lệ  28,57% và  cao dần  lên  theo nhóm  tuổi 5 – 8 tuổi là 41,42% – 48,64% [6]. Nguyên nhân do hiểu biết về vệ sinh và sức khỏe của người dân còn thấp, số đông ít quan tâm đến vệ sinh, coi đó chỉ là vấn đề cá nhân liên quan đến tiện nghi là chính chứ không phải là một vấn đề công cộng có liên quan đến sức khỏe của cộng đồng và sự trong sạch của môi trường. Thực hành vệ sinh kém nên các bệnh tật phổ biến thường xuyên xảy ra khiến cho người nông dân đã nghèo lại khó khăn hơn vì ốm đau, bệnh tật [1]. Nghiên cứu sự tồn tại và sự lưu hành  giun truyền  qua đất  tại  cộng  đồng  dân tộc Ê đê Đắk Lắk là việc làm cần thiết để tìm ra biện pháp phòng và chống nhiễm giun đặc trưng, hữu hiệu, có khả năng áp dụng rộng rãi để làm giảm  cường  độ  nhiễm,  tỷ  lệ  nhiễm,  góp  phần nâng cao sức khỏe của người dân. Đây là một sự quan tâm  của  Đảng  và  Nhà nước  về  bảo  vệ  sức khỏe  cho đồng  bào  dân  tộc  Tây  Nguyên  [7]. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu:

1. Xác định thực trạng nhiễm giun truyền qua đất ở người dân tộc Ê đê tại xã Ea Tiêu.

2. Xác định Kiến thức và thực hành của người dân tộc Ê đê tại xã Ea Tiêu về phòng, chống giun truyền qua đất.

II. ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Địa điểm nghiên cứu

Xã Ea Tiêu thuộc huyện Krông Ana, Đắk Lắk có trên 65% người dân tộc Ê đê đang sinh sống [2].

2. Đối tượng nghiên cứu

Cộng đồng dân cư là người dân tộc Êđê đang sinh sống tại xã Ea Tiêu.

3. Phương pháp nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu

Sử dụng phương pháp nghiên cứu ngang mô tả. Mô tả tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm giun; mô tả kiến thức và thực hành người dân về phòng chống bệnh giun qua điều tra KAP (Knowledge, attitude, practice).

Cỡ mẫu nghiên cứu:

Chọn  toàn  bộ  người  dân  tộc  Êđê  đang sinh sống trên địa bàn xã Ea Tiêu được lập danh sách đưa vào nghiên cứu. Mỗi hộ gia đình chúng tôi lấy toàn bộ số cá thể có trong gia đình đưa vào mẫu xét  nghiệm  (1506 cá  thể)  và  điều  tra KAP (460 chủ hộ hoặc thành viên gia đình trên 18 tuổi)

Vật liệu nghiên cứu:

Bộ câu hỏi điều tra KAP và phiếu theo dõi điều trị được  in sẵn. Kính hiển  vi quang học, lọ đựng bệnh  phẩm  phân  có  nhãn  và  dụng  cụ  Kato-Katz để xét nghiệm phân.

Các kỹ thuật dùng trong nghiên cứu

Kỹ thuật điều tra KAP: phỏng vấn chủ hộ gia đình bằng một bộ phiếu phỏng vấn trực tiếp gồm những câu hỏi dạng đóng, đơn giản, dễ hiểu (các câu hỏi này đã được thử nghiệm). Cùng phỏng vấn chúng tôi kết hợp một số quan sát thực tế để thu thập thông tin như nhà tiêu của gia đình, quan sát vệ  sinh cá  nhân  như rửa  tay  trước  khi ăn,  uống nước lã,…

Mỗi vùng địa phương, mỗi dân tộc có những điều kiện khác nhau cho bệnh giun truyền qua đất tồn tại phát triển. Mục tiêu: (1) Xác định thực trạng nhiễm giun truyền qua đất; (2) Xác định kiến thức, thực hành của người dân tộc Ê đê về phòng chống giun truyền qua đất tại xã Ea Tiêu.   Đối tượng nghiên cứu: Cộng đồng dân cư là người dân tộc Êđê đang sinh sống tại xã Ea Tiêu; Phương pháp nghiên cứu: điều tra ngang mô tả và kỹ thuật áp dụng là Kato-Katz. Kết quả và kết luận: xã Ea Tiêu huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk có tỷ lệ nhiễm giun chung là 74,1%, trong đó giun đũa có tỷ lệ cao nhất là 53,7%, kế tiếp là giun móc/mỏ 38,4% và thấp nhất là giun tóc 1,3%. Tỷ lệ nhiễm giun đũa không có sự khác biệt theo nhóm tuổi (2-15: 58,98% so với nhóm  > 16 tuổi: 50,87%) và tỷ lệ nhiễm giun móc/mỏ có sự khác biệt giữa 2 nhóm tuổi (2-15: 6,05% thấp hơn  nhóm   > 16 tuổi: 55,99%). Cường độ nhiễm trung bình (số trứng trung bình/ 1 gram phân) thuộc vào cường độ nhiễm nhẹ. Nhận thức và thực hành về phòng chống nhiễm giun của người dân nơi đây rất thấp: 29,8% số người không biết đúng một tác hại nào, 24,6% biết do thức ăn không đảm bảo vệ sinh, 16,3% do tay bẩn, 6,1% biết nguyên nhân gây nhiễm giun móc/mỏ.
 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment