Thực trạng nhiễm HIV, bệnh lao AFB (+) và đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng ở nhóm NCMT tại tỉnh Đắk Lắk
Luận án Thực trạng nhiễm HIV, bệnh lao AFB (+) và đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng ở nhóm NCMT tại tỉnh Đắk Lắk.HIV/AIDS và bệnh lao là hai vấn đề y tế công cộng quan trọng đã và đang được quan tâm trên toàn thế giới. Mặc dù hai bệnh này có tác nhân gây bệnh, cơ chế lây truyền cũng như nhóm đối tượng nguy cơ khác nhau, nhưng đã tác động tương tác làm tăng gánh nặng bệnh tật ở nhiều quốc gia trên thế giới. HIV đã làm cho chiến lược phòng chống bệnh lao ở nhiều quốc gia bị
thất bại và ngược lại, bệnh lao là nguyên nhân chính gây tử vong ở nhóm người nhiễm HIV [115].
Theo báo cáo của Tổ chức y tế thế giới (WHO) năm 2012 có khoảng một phần ba trong số 34 triệu người nhiễm HIV trên toàn thế giới bị mắc lao [115]. Năm 2011, ước tính 8,7 triệu người mắc bệnh lao và 1,1 triệu người (13%) nhiễm HIV mắc lao mới; 1,4 triệu người tử vong vì bệnh lao, trong đó ước tính 430.000 triệu người (24%) đồng nhiễm HIV [89], [113]. Bệnh lao luôn đồng hành với tình trạng nhiễm HIV, là một trong những bệnh nhiễm trùng cơ hội. Trên 30% số người nhiễm HIV có nguy cơ mắc bệnh lao cao 21 – 34 lần so với người không nhiễm HIV và gần 50% số người nhiễm HIV/AIDS bị chết do lao [71], [115].
Việt Nam, mặc dù có những cam kết mạnh mẽ và triển khai các chương trình dự phòng, nhưng sự lan truyền của HIV vẫn còn phức tạp, nhất là ở các nhóm quần the có hành vi nguy cơ cao. Số liệu thống kê của Bộ Y tế, ke từ khi phát hiện trường hợp HIV đầu tiên năm 1990 cho đến 31/12/2012, số trường hợp hiện còn sống: nhiễm HIV là 208.866, bệnh nhân AIDS là 59.839 và đã tử vong do AIDS là 62.183 trường hợp. Số liệu giám sát trọng điem, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy là 13,4% (2011) và 11,6% (2012), hiện vẫn là nhóm nguy cơ cao lây truyền HIV [8], [10], [14]. Bên cạnh HIV, bệnh lao vẫn còn là gánh nặng về sức khỏe, y tế và xã hội. Theo số liệu điều tra của Dự án phòng, chống lao quốc gia, trên 40% dân số Việt Nam
bị nhiễm lao. Việt Nam xếp thứ 12 trong 22 nước có số lượng bệnh nhân (BN) lao cao nhất thế giới và thứ 14 trong 27 nước có lao đa kháng và siêu kháng cao [89]. Hàng năm ước tính có thêm 180.000 BN lao, trong đó có khoảng 6.000 BN lao đa kháng và khoảng 7.400 BN HIV/lao. Tuy nhiên chúng ta mới chỉ phát hiện được khoảng 60% số BN ước tính trong khoảng
trên dưới 100.000 BN mỗi năm [3], [6].
Khu vực Tây Nguyên gồm tỉnh Đắc Nông, Đắk Lắk, Gia Lai và Kon Tum năm 1993 phát hiện 5 trường hợp nhiễm HIV đầu tiên, đến 31/12/2012,
số trường hợp hiện nhiễm HIV là 3.395 trường hợp, bệnh nhân AIDS là 1.400 và 765 trường hợp đã tử vong do AIDS. Phân bố HIV trên nhóm NCMT là 38,2% (2011), 37,6% (2012) phân bố BN lao nhiễm HIV là 3,5% (2011),
3,4% (2012) [17], [37].
Đắk Lắk là một tỉnh miền núi cao nguyên trung phần, cũng hội đủ và tiềm ấn các đặc điếm về HIV và bệnh lao trên người nhiễm HIV. Lũy tích từ 1993 đến 31/12/2012 ghi nhận số trường hợp nhiễm HIV còn sống được báo
cáo là 1.520 người, trong đó 623 người chuyến sang AIDS và 351 người đã tử vong do AIDS. Phân bố nhiễm HIV trên nhóm đối tượng NCMT là 43,55%, BN lao là 3,1% [17], [35]. Các yếu tố liên quan tới nhiễm HIV và bệnh lao có sự tương tác qua lại
giữa 2 tình trạng bệnh này. Nhiễm HIV làm cơ thế bị suy giảm miễn dịch, suy giảm miễn dịch dễ bị nhiễm và mắc bệnh lao [58], đặc biệt ở các đối tượng có nguy cơ cao. Xác định được các yếu tố liên quan là cơ sở khoa học đế đưa ra bằng chứng cho công tác xây dựng kế hoạch dự phòng và khống chế đại dịch HIV/AIDS cũng như bệnh lao phù hợp với bối cảnh của từng địa phương và từng quốc gia. Đế có được bức tranh tổng thế về hai vấn đề sức khỏe cộng cộng, đồng thời với sự can thiệp chủ động, nhằm giảm thiếu tỷ lệ mắc và tử vong, điều quan trọng là hiếu rõ các yếu tố nguy cơ của nhóm đối tượng có hành vi nguy cơ cao đế đưa ra các biện pháp ưu tiên trong công tác can thiệp dự phòng và phòng chống.
Trên cơ sở những kiến thức khoa học về HIV và bệnh lao mà các chiến lược phòng, chống cũng như mô hình can thiệp được áp dụng, nhưng kết quả cũng còn hạn chế do nhiều nguyên nhân như nguồn nhân lực, vật lực và sự khó khăn trong tiếp cận, cũng như đặc thù riêng của địa phương với nhiều dân tộc và trình độ kinh tế còn thấp. Hơn nữa, khu vực Tây Nguyên chưa có nghiên cứu nào về HIV/lao trên nhóm NCMT, do vậy nghiên cứu “Thực trạng nhiễm HIV, bệnh lao AFB (+) và đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng ở nhóm NCMT tại tỉnh Đắk Lắk” được tiến hành với 3 mục tiêu sau:
1. Xác định tỷ lệ nhiễm HIV và bệnh lao AFB (+) trong nhóm nghiện
chích ma túy ở tỉnh Đắk Lắk năm 2011.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng đồng nhiễm HIV và lao trên nhóm nghiện chích ma túy.
3. Đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng cộng đồng nhằm hạn chế tình trạng nhiễm HIV và lao trên nhóm nghiện chích ma túy giai đoạn 2011-
2012
DANH MỤC
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ
- Phạm Thọ Dược, Bùi Đức Dương, Nguyễn Thị Thu Yến, Nguyễn Hoàng Long, Phạm Văn Hậu. Hiệu quả can thiệp dự phòng HIV/AIDS ở nhóm nghiện chích ma túy tại Đắk Lắk, 2011 – 2012. Tạp chí Y học dự phòng 2014, XXIV,2 (150):34-2.
2.Phạm Thọ Dược, Bùi Đức Dương, Nguyễn Thị Thu Yến, Nguyễn Hoàng Long và Phạm Văn Hậu. Tỷ lệ đồng nhiễm HIV/ Lao và một số yếu tố liên quan ở nhóm nghiện chích ma túy tại Đắk Lắk, 2011. Tạp chí Y học dựphòng 2014, XXIV,2 (151):34-