Thực trạng, nhu cầu tư vấn, xét nghiệm, điều trị, chăm sóc và chuyển tuyến của học viên có hiv(+) tại trung tâm giáo dục lao động xã hội I và đề xuất mô hình can thiệp

Thực trạng, nhu cầu tư vấn, xét nghiệm, điều trị, chăm sóc và chuyển tuyến của học viên có hiv(+) tại trung tâm giáo dục lao động xã hội I và đề xuất mô hình can thiệp

Số liệu của chi cục phòng chống tệ nạn xã hội cho thấy số lượng người nghiện chích ma túy (NCMT) vào các TT của Hà Nội  trong 5 năm qua liên tục tăng. Bên cạnh đó, thời gian cai nghiện tại các TT này cũng tăng từ 6 tháng đến 2 năm. Vấn đề gặp phải của các TT là nhiễm HIV trong học viên ngày càng gia tăng. Câu hỏi nghiên cứu: Tình hình nhiễm HIV, mô hình bệnh tật ở học viên có HIV(+) tại TT? Nhu cầu  học viên được tư vấn về xét nghiệm HIV, về các vấn đề sức khoẻ liên quan tới HIV và nhu cầu kết nối với các dịch vụ chăm sóc cho người có HIV(+) tại cộng đồng khi ra TT? Tổ chức mô hình tư vấn, xét nghiệm và chuyển tuyến (HIV-CTR) tại các TT này?. Vì vậy chúng tôi tiến hành điều tra tại TTGDLĐXH1 nhằm mục tiêu:

1. Xác định tỷ lệ nhiễm HIV và mô hình bệnh tật của học viên có HIV(+).

2. Mô tả kiến thức về nhiễm HIV và sức khoẻ của học viên có HIV(+) .

3. Xác định nhu cầu tư vấn liên quan tới xét nghiệm, điều trị và chăm sóc của học  viên có HIV(+).

II. ĐỐI TƯỢNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Điều tra dịch tễ học mô tả kết hợp phương pháp định lượng và định tính

1. Điều tra định lượng

Đối tượng nghiên cứu:

Học viên nam giới tại TT1, có sử dụng ma túy theo đường chích ít nhất 2 tháng trước khi vào trung tâm, đang cai nghiện tại TT1 ít nhất 1 tháng tại thời điểm điều tra. 6 tháng trước khi vào trung tâm ở cộng đồng và không tham gia liệu trình cai nghiện nào.

Nhiễm HIV ở học viên cai nghiện tại các trung tâm lao động xã hội (TT) ngày càng gia tăng. Đề  tài này với mục tiêu đánh giá thực trạng, nhu cầu tư vấn, xét nghiệm, điều trị, chăm sóc và chuyển tuyến của học viên có HIV(+) (HIV-CTR) tại TT, đề xuất mô hình can thiệp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 297 học viên tại TT1 được phỏng vấn định lượng, định tính; 103 học viên có HIV(+) được khám sức khoẻ.  Kết quả: Tỷ lệ học viên có HIV(+) tại TT1 năm 2004 là cao 36%. Vấn đề sức khoẻ ở học viên có HIV(+) đa dạng: 36,2% có bệnh phối hợp; 73,8% viêm gan C; 18% có đồng nhiễm viêm gan B và C; 11,5% đã từng bị một loại bệnh tái phát; Đáp ứng miễn dịch còn tốt (74,3% có TCD4 > 500 tế bào/mm3). Học viên có HIV(+) hiểu biết về các vấn đề sức khoẻ rất thấp: 49,5% trả lời đúng thời gian từ khi nhiễm đến chuyển AIDS. Dưới 1/3 biết cách duy trì sức khoẻ và các cách thực hành phòng lây nhiễm HIV. Xử trí chính khi ốm đau là tự mua thuốc (46%) và đến khám tại bệnh viện đa khoa khu vực (38,5%). Công tác HIV-CTR tới gia đình và cộng đồng chưa được thực hiện. 56,1% học viên có HIV(+)  có nhu cầu được tư vấn. Bất cập trong việc triển khai công tác tư vấn là thiếu đội ngũ cán bộ.
 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment