Thực trạng ô nhiễm thuỷ sản được nuôi ở một số ao hồ Hà Nội
Nghiên cứu mức độ nhiễm kim loại nặng và vi sinh vật trong 240 mẫu thủy sản các loại được lấy từ 17 ao hồ hiện đang nuôi trồng thủy sản của Hà Nội vào mùa mưa (tháng 8, 9) và mùa khô (tháng 1,2) cho thấy 100% mẫu thủy sản bị nhiễm kim loại nặng As, Cr, Hg, Pb, Cd, Ni, VKHK & E. coli với mức độ ô nhiễm khác nhau. Mùa khô mức độ ô nhiễm cao hơn hẳn so với mùa mưa. So với tiêu chuẩn cho phép các kim loại Pb, Cr & Ni có mức độ ô nhiễm cao hơn cả, rồi đến Hg, Cd &As là ít bị ô nhiễm hơn cả. Mức độ ô nhiễm về E. coli rất cao, cao hơn hàng trăm đến hàng nghìn lần so với tiêu chuẩn cho phép.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ô nhiễm môi trường hiện đang là một vấn đề toàn cầu, sự bùng nổ dân số cùng với tốc độ đô thị hoá, công nghiệp hoá nhanh chóng đã tạo ra một sức ép lớn tới môi trường sống gây ô nhiễm môi trường một cách trầm trọng.
Một mắt xích quan trọng của ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe con người qua cây trồng, thực phẩm và đất là do việc sử dụng bừa bãi nước thải, đặc biệt ở các khu công nghiệp mà chưa được xử lý. Tuy nước thải là một nguồn nước tưới giầu chất hữu cơ và các chất dinh dưỡng cho cây trồng, vật nuôi, nhưng nó cũng chứa rất nhiều chất độc hại như các muối hòa tan, các kim loại nặng như: Fe2^ Cu2^ Zn2^ Mn2+’ Ni2^ Pb2+… Những chất thải công nghiệp, chất thải sinh hoạt, chất thải bệnh viện nếu không được xử lý sẽ là môi trường sống thuận lợi cho một số vi khuẩn nguy hiểm và các chất độc hoá học lan rộng ra môi trường nước, đất, không khí. Khi đó gây ra một số bệnh cho người, động vật và thủy sản, đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe con người [3].
Hàng ngày thành phố Hà Nội thải ra khoảng 450.000 m3 nước thải sinh hoạt và gần 260.000 m3 nước thải sản xuất. Hầu hết lượng nước thải trên chưa qua xử lý và được xả trực tiếp vào môi trường, dẫn đến ô nhiễm trầm trọng nguồn nước mặt. Các sông ở nội thành Hà Nội đều bị ô nhiễm, đặc biệt là các sông thoát nước thải như sông Nhuệ, sông Kim Ngưu, sông Tô Lịch… các sông này hiện không còn khả năng tự làm sạch nhưng lại là nguồn cung cấp nước chính cho các ao hồ nuôi thuỷ sản tại Hà Nội. Đặc biệt là sông Tô Lịch và sông Nhuệ là hai con sông thoát nước thải chính của Hà Nội. Đây cũng là hai con sông cung cấp nguồn nước chính cho các ao hồ nuôi trồng thuỷ sản tại quận Hoàng Mai và huyện Thanh Trì – nơi có diện tích và sản lượng thuỷ sản lớn nhất của Hà Nội.
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá mức độ ô nhiễm của thủy sản được nuôi ở một số ao /hồ trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó đề xuất những kiến nghị và giải pháp góp phần cải thiện chất lượng thủy sản, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng: Các loại thủy sản được nuôi tại các ao /hồ của phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai; xã Đại Áng và xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì và một số hồ như hồ Tây, hồ Trúc Bạch, hồ Yên Sở, Hà Nội.
2. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp lấy mẫu thuỷ sản, nuôi cấy xác định số lượng vi sinh vật và định lượng hàm lượng kim loại nặng trong thuỷ sản.
Cách chọn & lấy mẫu thuỷ sản: lấy tất cả các loại thuỷ sản được nuôi phổ biến tại các ao /hồ của các xã / phường và các hồ tự nhiên của Hà Nội. Cách lấy mẫu và xử lý mẫu cá theo tiêu chuẩn TCVN 5993-1995 [1].
Xác định mức độ nhiễm về vi sinh vật và kim loại nặng có trong thủy sản gồm:
– Vi sinh vật gây bệnh: Tổng số vi khuẩn hiếu khí, E. coli, S. aureus, Samonella.
– Một số kim loại nặng: Cr, Hg, Cd, Pb, As, Ni.
Phương pháp phân tích:
– Hàm lượng các kim loại nặng trong thủy sản được xử lý mẫu và phân tích định lượng trên máy AAnalyst 30 (của hãng Perkin Elmer – Mĩ) theo phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử ngọn lửa và không ngọn lửa hoặc phương pháp hoá hơi lạnh tuỳ từng loại kim loại theo tiêu chuẩn của hiệp hội môi trường Mỹ.
– Xác định vi sinh vật gây bệnh trong thuỷ sản theo thường quy kỹ thuật của Viện YHLĐ &VSMT [6].
Tiêu chuẩn đánh giá ô nhiễm thuỷ sản tươi sống:
– “Qui định giới hạn tối đa ô nhiễm sinh học và hoá học trong thực phẩm – Quyết định số
46/2007/QĐ -BYT ngày 19 tháng 12 năm 2007 [4].
– TCVN 7046 – 2002 đối với thực phẩm thuỷ sản [5].
Số liệu được xử lý bằng phần mềm EPI-INFO 6.04 và SPSS 13.0
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích