Thực trạng ốm đau và sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người dân hai xã đồng bằng (thiệu long) và xã miền núi (cẩm bình) tỉnh Thanh Hóa

Thực trạng ốm đau và sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người dân hai xã đồng bằng (thiệu long) và xã miền núi (cẩm bình) tỉnh Thanh Hóa

Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con ngườivà  toàn  xã hội.  Sức  khỏe  tốt  sẽ  góp phần  đẩy
mạnh sự tăng trưởng kinh tế, cho bản thân và cho xã hội, đồng thời giảm bớt các chi tiêutốn
kém cho khám chữa bệnh, một yếu tố dẫn đến đói  nghèo  ở  Việt  Nam  [2].  Để  đạt  được  mục
tiêu sức khỏe cho mọi người, các chính sách  về y  tế  phải  được  thường  xuyên  điều  chỉnh  cho phù hợp với thực tế, nhất là trong điều kiện của nước  ta  hiện  nay.  Để  xây  dựng  và  điều  chỉnh chính sách, cần phải có thông tin y tế, trong đó thông tin về nhu cầu chăm sóc sức khỏe (phản  ánh qua tình hình ốm đau) và hành vi sử dụng dịch vụ y tế của người dân là một trong những thông  tin  cần  thiết  phải  thu  thập  [1].  Đối  với các  nhóm  người  dễ  bị  tổn  thương  như  người nghèo, người dân ở các vùng nông thôn, vùng núi xa xôi hẻo lánh, các thông tin này có thể hỗ trợ việc đánh giá mức độ công bằng trong việc sử dụng dịch vụ y tế và đóng góp cho các chính sách  đang  được  xây  dựng  để  tăng  cường  cung cấp  khả  năng  tiếp  cận  dịch  vụ  y  tế  đối  vớingười nghèo [2Mục tiêu:Xác định tỷ lệ ốm và mô tả thực trạng sửdụng dịch vụ khám chữa bệnh, mua thuốc khi bị ốm của người dân hai xã Thiệu Long và Cẩm Bình (Thanh Hóa).Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
mô tả cắt ngang. Phỏng vấn chủ hộ gia đình (các bà mẹ/ông bố) người quyết định cách xửtrí. Khám chữa  bệnh,  mua  thuốc  cho  các  thành  viên  trong nhà  và  người  ốm  tại  1614  hộ  gia  đình  trong  2 đợt nghiên cứu (đợt 1 là 814 hộ; đợt 2 là 800 hộ).  Kết quả:Tỷ lệ ốm trong 1 tháng tại 2 xã khá cao (32,3%).
Có sự khác biệt tỷ lệ ốm đau theo xã (đồngbằng 38,5%; miền núi 28,4%), theo giới (nữ 36,6%; nam 27,6%) và theo mức sống: Các nhóm nghèo và cận nghèo có tỷ lệ ốm cao nhất (37 và 34%). Các nhóm khá  và  giàu  có  tỷ  lệ  ốm  thấp  hơn  (29,1%;  28,4%);  Người  dân  thường  tự  chữa  nhiều  nhất  khi  bị  ốm (41,2%), sau đó đến khám chữa bệnh tại y tế  tư nhân (22,4%), trạm y tế xã (17,7%), khám chữa bệnh ngoại trú bệnh viện (11,0%). Có sự khác nhauvề sự lựa chọn dịch vụ y tế giữa 2 xã và giữa các nhóm mức sống: người dân xã đồng bằng Thiệu Hóachọn y tế tư nhiều hơn (32,4% so với 11,5%), người dân xã miền núi Cẩm Bình lại chọn đến dịch vụ ytế công (36,6% so với 26,1% – cộng chung cả 3dịch vụ –
TYTX, khám nội trú, ngoại trú bệnh viện); Nhóm nghèo sử dụng dịch vụ ngoại trú bệnh viện ít nhất so với các nhóm khác. Các lý do chính quyết định việc sử dụng dịch vụ y tế của người dân là quen biết (52,7%), thuận tiện (46,9%) và tin tưởng chuyên môn (38%). Có sự khác biệt về lý do lựa chọn dịch vụ y tế giữa 2 xã, trong đó thuận tiện và có bác sĩ là hai lý do được người dân ở xã miền núi đưa ra nhiều hơn so với xã đồng bằng (thuận tiện 49,3%; 44,7%; có bác sĩ 17,5%; 13%), trong khi tại xã đồng bằng, lý do quen biết và tin tưởng chất lượng lại  nhiều hơn xã miền núi (quen biết 57,3%; 47,4%;tin tưởng chất lượng 44,9%; 30%).  Kết luận:1/3 người dân hai xã nghiên cứu có nhu cầu chăm sóc sức khỏe và 2/5 trong số đó tự chữa

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment