Thực trạng phản ứng sau tiêm tại phòng tiêm chủng Trường Đại học Y Hà Nội giai đoạn 2015 – 2020

Thực trạng phản ứng sau tiêm tại phòng tiêm chủng Trường Đại học Y Hà Nội giai đoạn 2015 – 2020

Thực trạng phản ứng sau tiêm tại phòng tiêm chủng Trường Đại học Y Hà Nội giai đoạn 2015 – 2020
Nguyễn Văn Thành, Lê Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thuý Nam, Hoàng Diệu Linh, Lê Thị Thanh Hà
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Nghiên cứu mô tả loạt trường hợp phản ứng sau tiêm của khách hàng tại phòng tiêm chủng dịch vụ trường Đại học Y Hà Nội từ 2015 đến 2020. Phần lớn là các phản ứng thông thường sau tiêm, có 4 trường hợp là tai biến nặng sau tiêm. Tỷ lệ có tai biến nặng sau tiêm các vắc xin là 3,7/100.000 liều vắc xin. Tỷ lệ có tai biến nặng sau tiêm vắc xin cao nhất là ở vắc xin phế cầu với tỉ lệ 25 trường hợp/100.000 liều vắc xin. Thời gian xảy ra tai biến nặng rất nhanh (dưới 10 phút). Triệu chứng đầu tiên thường là tím tái, khó thở. Phản ứng thông thường gặp chủ yếu ở những đối tượng sử dụng vắc xin não mô cầu, viêm gan B, vắc xin 6 trong 1, phế cầu và uốn ván. Thời gian xảy ra chủ yếu xuất hiện từ 1 ngày đến 2 ngày sau tiêm với các triệu chứng sốt, choáng váng, ban đỏ, ngứa. Các nguyên nhân chủ yếu là do phản ứng quá mẫn với vắc xin và do trùng hợp ngẫu nhiên với nguyên nhân khác. Tất cả các đối tượng có phản ứng sau tiêm đều khỏi và ổn định.

Tiêm chủng mở rộng (TCMR) đã được triển khai ở Việt Nam gần 40 năm và mang lại nhiều kết quả to lớn. Nhờ việc duy trì tỷ lệ tiêm chủng cao trong nhiều năm, Việt Nam đã thanh toán bệnh bại liệt vào năm 2000, loại trừ uốn ván sơ sinh vào năm 2005 và tiếp tục duy trì các thành quả  đó  cho  tới  nay.1  Bên  cạnh  chương  trình tiêm chủng quốc gia, tiêm chủng dịch vụ cũng cung cấp 4 – 5 triệu mũi tiêm mỗi năm đóng góp phần không nhỏ vào nâng cao tỷ lệ bao phủ tiêm chủng vắc xin. Vắc xin cũng giống như bất kỳ loại thuốc nào, có thể gây ra những tác dụng không mong muốn.2 Khi tần suất sử dụng vắc xin càng nhiều thì xác suất gặp phải những phản ứng này càng cao. Trên thực tế, việc xuất hiện phản ứng sau tiêm (PUST) không chỉ phụ thuộc vào chất lượng vắc xin mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như kỹ thuật bảo quản vắc xin, chất lượng hệ thống dây chuyền lạnh, kỹ năng thực hành tiêm chủng, thể trạng của trẻ… Tại  Ấn  Độ,  từ  năm  2012  –  2015  đã  ghi nhận được 771 trường hợp phản ứng nặng sau tiêm, trong đó có 25% số trường hợp tử vong.3Tại Việt Nam, tính tới ngày 4 tháng 5 năm 2013, đã có 12 ca tử vong sau tiêm Quivaxem được ghi nhận.4 Dữ liệu phân tích được lấy từ số liệu giám sát tiêm chủng của khu vực phía Nam Việt Nam cho thấy từ năm 2010-2016, trong tổng số 39.448.677 liều vắc xin đã được sử dụng, có 96 ca sự cố bất lợi đã được báo cáo (tỷ lệ chung: 2,4/1.000.000 liều).5Ở Việt Nam, phản ứng nặng sau tiêm được xem  như  một  vấn  đề  khá  nhạy  cảm,  vì  vậy các nghiên cứu hiện có chủ yếu chỉ đánh giá các phản ứng nhẹ, thường gặp; mà còn thiếu những báo cáo, nghiên cứu tổng hợp về các trường hợp phản ứng nặng. Nếu những phản ứng nặng không được điều tra và làm rõ kịp thời, chúng có thể làm giảm niềm tin của cộng đồng đối với vắc xin, kết quả làm giảm tỷ lệ tiêm chủng.6 Phòng Tiêm chủng Đại học Y Hà Nội thành lập từ tháng 8/2015, cho đến nay

Chi tiết bài viết
Từ khóa
Phản ứng thông thường, tai biến nặng, tiêm chủng

Tài liệu tham khảo
1. Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương. Báo cáo kết quả tiêm chủng mở rộng năm 2016. 2016.
2. Committee to Review Adverse Effects of Vaccines Institute of Medicine. Adverse Effects of Vaccines: Evidence and Causality. National Academy of Sciences,Washington (DC). 2011.
3. Singh A.K., Wagner A.L., Joshi J. Application of the revised WHO causality assessment protocol for adverse events following immunization in India. Vaccine. 2017; 35(33): 4197-4202.
4. WHO. Safety of Quinvaxem (DTwP-HepB-Hib) pentavalent vaccine. 2013; http://www.who.int/immunization_standards/vaccine_quality/quinvaxem_pq. Accessed 04/10, 2020.
5. Châu Văn Lượng, Nguyễn Diệu Thúy, Hồ Vĩnh Thắng, et al. Nghiên cứu mô tả về đặc điểm các trường hợp sự cố bất lợi nghiêm trọng sau tiêm chủng tại khu vực phía Nam Việt Nam, 2010-2016. Tạp chí Y học dự phòng. 2017; 11.
6. UNICEF. Building trust and responding to Adverse events following immunization in South Asia: Using strategic communication. 2005.
7. Michael M., McNeil, Eric S., Weintraub, Jonathan Duffy. Risk of anaphylaxis after vaccination in children and adults. Journal of allergy and clinical immunology. 2016; 137(3): 868-878.
8. Bộ Y tế. Quyết định 1830/QĐ-BYT về việc ban hành “Hướng dẫn giám sát, điều tra, phân tích, đánh giá nguyên nhân phản ứng sau tiêm chủng”. 2014.
9. Pham Quang Thai, Duong Thi Hong, Duong Huy Luong, Nguyen Thi Thuy Dung, Nguyen Khac Tu, Tran Nhu Duong. Adverse events after Quinvaxem vaccination among children and their mother’ practices on postimmunization monitoring in Bac Ninh province, 2014. Vietnam Journal of Preventive Medicine. 2015; XXV(7): 167.
10. Cho H.Y., Kim J.H., Hennessey K.A., Lee H.J., Bae G.R., Kim H.C. Adverse events following immunization (AEFI) with the novel influenza a (H1N1) 2009 vaccine: findings from the national registry of all vaccine recipients and AEFI and the passive surveillance system in South Korea. Jpn J Infect Dis. 2012; 65(2): 99-104.
11.Nguyễn Gia Bình, Đào Xuân Cơ, Đặng Quốc Tuấn, Nguyễn Đăng Tuân, Phạm Thế Thạch. Đánh giá hiệu quả của phác đồ cấp cứu phản vệ do khoa hồi sức tích cực Bệnh viện Bạch Mai xây dựng áp dụng qua 161 ca lâm sàng. Tạp chí Y học Việt Nam. 2016; 4(441): 3-8.
12. Phạm Ngọc Hùng, Hà Thế Tấn, Phan Tân Dân. Tính an toàn của vắc xin phòng bệnh do não mô cầu Tip B, C (VA-Mengoc-BC) trên đối tượng tình nguyện từ 10-45 tuổi tại tỉnh Hà Nam. Tạp chí Y học dự phòng. 2016; XXVI(7): 180.

Thực trạng phản ứng sau tiêm tại phòng tiêm chủng Trường Đại học Y Hà Nội giai đoạn 2015 – 2020

Leave a Comment