Thực trạng sử dụng máu và các chế phẩm máu phục vụ cho cấp cứu và điều trị tại bệnh viện Bạch Mai

Thực trạng sử dụng máu và các chế phẩm máu phục vụ cho cấp cứu và điều trị tại bệnh viện Bạch Mai

Truyền máu là một phương pháp điều trị đã được áp dụng từ những năm đầu thế kỷ XX và đến nay đang ngày càng được hoàn thiện. Đây là một qui trình khép kín gồm 3 lĩnh vực: vận động hiến máu, ngân hàng máu và truyền máu lâm sàng, trong đó, việc sử dụng máu lâm sàng là khâu cuối cùng nhưng có  vai trò hết sức quan trọng. Nâng cao chất lượng của công tác truyền máu tại một bệnh viện phải bao gồm cả việc chỉ định sử dụng sản phẩm máu từ tháng 1/2005 đến 6/2006 qua hệ thống sổ sách lĩnh máu, lưu trữ, cấp phát máu và hồ sơ lưu trữ bệnh nhân vào ra viện từ 1/2005 đến 6/2006.

Nghiên cứu việc chỉ định truyền máu tại một số khoa lâm sàng trong bệnh viện từ 1/2006 đến hết 6/2006, bao gồm: khoa Huyết học – Tru- yền máu, Điều trị tích cực, Tiêu hoá, Ngoại, Sản, Truyền  nhiễm,  Thận, Thận nhân tạo, Tim mạch, Dị ứng – Miễn dịch lâm sàng, Nhi. máu và các sản phẩm máu một cách hợp lý, hiệu

Nghiên cưú tai biến truyen máu: bệnh nhân quả và tiết kiệm.

Truyền máu đã cứu sống nhiều bệnh nhân, tuy nhiên, nếu được chỉ định và sử dụng không đúng

và hồ sơ bệnh án của 2266 lượt truyền khối hồng cầu (KHC), 118 lượt truyền máu toàn phần (MTP), 900 lượt truyền huyết tương, 692 lượt truyền khối tiểu cầu thì không những giảm hiệu quả điều trị mà còn có thể gây ra nhiều phản ứng có hại cho người bệnh. Để đảm bảo hiệu quả và tính an toàn của công tác truyền máu, vấn đề phát hiện sớm các phản ứng

(KTC), 155 lượt truyền tủa lạnh và 6 lươt bạch cầu (KBC) tại các khoa kể trên.

2. Phương pháp nghiên cứu truyền khoi

truyền máu đóng một vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt là ở một nơi sử dụng nhiều máu và chế phẩm máu như Bệnh viện Bạch mai. Hiện nay, tình hình sử dụng máu và các chế phẩm máu trên lâm sàng, đặc biệt là tình trạng phản ứng truyền máu ở các chuyên khoa khác nhau còn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ ở Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu tình hình sử dụng máu và các chế phẩm máu phục vụ cho cấp cứu và điều trị tại bệnh viện Bạch mai”  nhằm mục tiêu:

1. Mô tả thực trạng sử dụng máu và sản phẩm máu chỉ định và phản ứng truyền  máu  tại các khoa lâm sàng trong bệnh viện Bạch Mai.

2. Rút ra các kinh nghiệm về sử dụng máu và chế phẩm máu.

I. ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG    PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng nghiên cứu
1.1. Nghiên cứu tình hình sử dụng máu và các Nghiên cứu hồi cứu từ tháng 1/2005 đến tháng

12/2005

Nghiên  cứu  tiến  cứu  từ  tháng  1/2006  đến tháng 6/2006.

Nghiên cứu tình hình sử dụng máu và các sản phẩm máu từ tháng 1/2005 đến  6/2006 qua các thông số: Tổng lượng máu và chế phẩm theo nhu cầu, tổng lượng máu và chế phẩm đã phát, tỷ lệ đáp ứng, tỷ lệ sử dụng máu cho cấp cứu và theo kế hoạch, lượng máu và chế phẩm sử dụng theo số giường, theo từng bệnh, từng tháng trong  năm, theo nhóm máu.

Nghiên cứu việc chỉ định truyền máu tại một số khoa lâm sàng trong bệnh viện từ 1/2006 đến hết 6/2006 với các thông số: truyền máu cấp cứu và có kế hoạch trên  những bệnh nhân được truyền MTP và KHC, mức độ giảm HST ở những bệnh nhân được  truyền MTP và KHC, số lượng máu được chỉ định truyền, mức độ giảm tiểu cầu ở những bệnh nhân được truyền KTC, tình  trạng xuất huyết trước khi truyền KTC.

Mục tiêu: (1) Mô tả thực trạng sử dụng máu và sản phẩm máu, việc chỉ định và phản ứng truyền máu tại các khoa lâm sàng trong bệnh viện Bạch Mai; (2) Rút ra các kinh nghiệm trong việc sử dụng máu và chế phẩm của máu. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu từ tháng 1/2005 đến tháng 12/2005 và tiến cứu từ tháng 1/2006 đến tháng 6/2006 qua hệ thống sổ sách, bệnh án và các bệnh nhân. Kết quả nghiên cứu: từ 1/2005 đến 6/2006, BV Bạch mai đã sử dụng 45318 đơn vị máu và các sản phẩm, nhiều nhất là khối hồng cầu (57,9%), huyết tương (24,9%) và khối tiểu cầu (12,3%). Nhóm máu được sử dụng nhiều nhất là nhóm O (44,5%). Máu toàn phần – khối hồng cầu và khối tiểu cầu được sử dụng nhiều nhất ở khoa HHTM và huyết tương được sử dụng nhiều nhất ở khoa ĐTTC. Tỷ lệ bệnh nhân đượcẫúet nghiệm huyết sắc tố trước khi tru- yền máu toàn phần – khối hồng cầu và số lượng tiểu cầu trước khi truyền khối tiểu cầu là 31,1% và 27,8%. Tỷ lệ xảy ra phản ứng trong truyền là 1,04%, gặp nhiều nhất là mẩn ngứa- 83,7%. Tỷ lệ phản ứng xảy ra cao nhất với máu toàn phần (3,4%) và khối tiểu cầu (3%). Kết luận: từ 1/2005 đến 6/2006, BVBM đã sử dụng tổng số 45318 đơn vị máu và các sản phẩm, nhiều nhất là khối hồng cầu, huyết tương, khối tiểu cầu và máu toàn phần. Tỷ lệ  bệnh nhân được xét nghiệm trước khi truyền máu toàn phần hoặc khối hồng cầu và khối tiểu là 31,1% và 28,7% . Tỷ lệ xảy ra tai biến trong truyền là 1,04%, gặp nhiều nhất là mẩn ngứa (83,7%), gặp chủ yếu với máu toàn phần (3,4%) và khối tiểu cầu.
 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment