Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi và một số yéu tố liên quan tới suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 24 tháng
Suy dinh dưỡng vẫn là một thách thức lớn đối với sức khỏe và sự phát triển của trẻ nhỏ. Kết quả điều tra 6,945 trẻ dưới 24 tháng tuổi tại 10 tỉnh ở Việt Nam cho thấy: Tỷ lệ SDD thể thấp còi là 22,6%; Tỷ lệ SDD thấpcòităngdầntheo tuổi. TỷlệSDD thấp còiở nhóm tuổitừ 0-5tháng là 10,4%; 6-11 tháng là 15,1%; 12-18 tháng là 29,3%; 18-23 tháng là 34,0%. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em là trình độ học vấn của bà mẹ (OR = 1,9; 95% Cl, 1,67- 2,09); bà mẹ có từ 3 con trở lên làm tăng nguy cơ SDD thấp còi của trẻ gấp 1,5 lần; trẻ có CNSS dưới 2500 gram làm tăng nguy cơ SDD của trẻ lên gấp 3,2 lần; trẻ ÍỪ12-23 tháng có nguycơmắc SDD gấp 2,9 lần. Các can thiệp cải thiện dinh dưỡng trẻ em và bà mẹ cần có giải pháp lâu dài, có chính sách ưu tiên can thiệp dinh dưỡng riêng cho các xã nghèo, vùng khó khăn.
Suy dinh dưỡng (SDD) trẻ em, đặc biệt là trẻ dưới 24 tháng đang là vấn đề sức khoẻ cộng đồng quan trọng ở các nước đang phát triển, đáng lưu ý ở các nước Châu Phi và Đông Nam Châu Á [1], trong đó có Việt Nam. SDD làm tăng nhậy cảm và tính trầm trọng của các bệnh nhiễm trùng, do vậy, SDD là yếu tố nguy cơ quan trọng và thường xuyên nhất dẫn tới gánh nặng về bệnh tật ở các nước đang phát triển [1].
Ước tính vào năm 2006, trên thế giới có khoảng 9,5 triệu trẻ em tử vong khi dưới 5 tuổi, trong đó 35% trẻ tử vong có nguyên nhân liên quan đến thiếu dinh dưỡng [4]. Có khoảng 178 triệu trẻ dưới 5 tuổi trên toàn cầu bị thấp còi [2]. Ở các nước đang phát triển tỷ lệ trẻ thấp còi là 32%, 10% gày còm [3].
Các kết quả nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng từ năm 1985 đến năm 2007 cho thấy tỷ lệ SDD của trẻ em trong cộng đồng đã giảm ở cả 3 thể. Tuy vậy, so với phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới, tỷ lệ SDD thể nhẹ cân và thể thấp còi ở nước ta vẫn còn ở mức cao (trong khoảng 20%-30%), tỷ lệ SDD gầy còm ở mức trung bình (trong khoảng 5%-9%) [4]. Theo chuẩn của WHO, năm 2008 toàn quốc có 19,9% trẻ dưới 5 tuổi bị nhẹ cân, 32,6% thấp còi. Diễn biến SDD cho thấy tất cả các tỉnh, thành phố, tỷ lệ SDD giảm nhanh đến năm 2003, sau đó chậm dần đến nay [4].
Nghiên cứu được nhằm đánh giá tỷ lệ SDD thấp còi và phân tích mối liên quan giữa điều kiện kinh tế xã hội, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung với tình trạng SDD thấp còi ở trẻ dưới 24 tháng tuổi tại 10 tỉnh. Kết quả được sử dụng để xây dựng giải pháp phòng chống SDD trẻ em và cải thiện tình trạng nuôi dưỡng trẻ nhỏ phù hợp với từng tỉnh.
II. ĐÓI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng nghiên cứu
Trẻ em dưới 24 tháng tuổi trong điều tra giám sát dinh dưỡng năm 2009 do Viện Dinh Dưỡng chủ trì tại các tỉnh được chọn, được bà mẹ đồng ý tự nguyện tham gia vào nghiên cứu. Bà mẹ/ người đang chăm sóc chính trẻ em dưới 24 tháng tuổi trong danh sách trên, đồng ý tự nguyện tham gia vào nghiên cứu, đã và đang sinh sống tại địa bàn nghiên cứu từ 1 năm trở lên.
2. Địa điểm nghiên cứu
10 tỉnh: Thái Nguyên, Thanh Hoá, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Kon Tum, Đắk Lăk, Đăk Nông, Khánh Hoà, Vĩnh Long, Gia Lai
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, có phân tích để xác định tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan.
4. Cỡ mẫu và chọn mẫu
Cỡ mẫu nghiên cứu được tính toán theo công thức tính cỡ mẫu trong điều tra phức hợp của MICS (Multiple Indicator Cluster Survey – Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phu nữ) do UNICEF đưa ra
n = [4(p)(1-p)(deff)(1,1)]/[(e2)(r)]
Trong đó: p = ước lượng tỷ lệ mắc SDD thể thấp còi (ước tính =24%); e = giới hạn sai lệch; n = cỡ mẫu; nh = số hộ cần điều tra; deff = hiệu ứng thiết kế chọn mẫu chùm (giả định =2); r = tỷ lệ số đối tượng có trong mẫu điều tra (Ví dụ tỷ lệ trẻ dưới 24 tháng tuổi trên số trẻ dưới 5 tuổi là 0.45); 1,1 = hệ số dự phòng tăng thêm 10% trong trường hợp không trả lời
Như vậy, cần điều tra 570 trẻ dưới 24 tháng tuổi để đủ đại diện cho tỉnh.
Cỡ mẫu điều tra cần cho 1 tỉnh: 570 trẻ
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích