Thực trạng tai biến sản khoa tại cộng đồng ở một số xã của huyện Hoài Đức – tỉnh Hà Tây

Thực trạng tai biến sản khoa tại cộng đồng ở một số xã của huyện Hoài Đức – tỉnh Hà Tây

Thiên chức của người phụ nữ là mang thai và sinh đẻ, các yếu tố nguy cơ và liên quan đến thai nghén nếu không được chăm sóc và xử trí kịp thời luôn là mối đe doạ tới tính mạng của cả mẹ và con. Những trường hợp bà mẹ bị TBSK trong quá trình mang thai và sinh đẻ là những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong mẹ. Tai biến sản khoa là chỉ số đóng vai trò quan trọng nhất trong các hoạt động của ngành y tế nói chung và chương trình chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em (Làm mẹ an toàn) nói riêng [1].

Những tai biến sản khoa trực tiếp thường gặp là băng huyết, nhiễm khuẩn, vỡ tử cung tiền sản giật/sản giật và uốn ván rốn. Tuy là những tai biến nặng có thể gây tử vong cho người mẹ và trẻ sơ sinh nhưng có thể phòng tránh được nếu phát hiện và xử trí sớm [3].

Tỷ lệ tai biến sản khoa tại Việt Nam rất khác nhau giữa các vùng và khu dân cư trong cả nước, đặc biệt là miền núi, vùng sâu, vùng xa nơi có nhiều dân tộc ít người sinh sống và các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ chưa đáp ứng được đầy đủ. Một sự khác nhau nữa là giữa thực tế và báo cáo thống kê. Ví dụ, một nghiên cứu về tai biến sản khoa tại cộng đồng ở một số xã của huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây [5] đăng trên Tạp chí Thông tin Y học (tháng 11/2006) cho thấy, số liệu báo cáo cả năm 2004 của huyện về tai biến sản khoa chỉ có 7 ca, trong khi đó nghiên cứu tại cộng đồng có 41 ca tai biến sản khoa, chiếm 10,9%. Như vậy, có sự chênh lệch rất lớn giữa báo cáo và thực tế tại cộng đồng. Để có được số liệu so sánh và tìm hiểu thực trạng về TBSK tại cộng đồng vùng nông thôn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Thực trạng tai biến sản khoa tại cộng đồng ở một số xã của huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây với mục tiêu:

1. Xác định tỷ lệ mắc tai biến sản khoa  tại cộng đồng ở một số xã của huyện Hoài  Đức, tỉnh Hà Tây.

2. Mô tả một số yếu tố nguy cơ liên  quan đến tai biến sản khoa tại địa bàn nghiên cứu.

I. ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG    PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Địa điểm nghiên cứu

Huyện Hoài Đức thuộc tỉnh Hà Tây là một huyện  nông  thôn  nằm  cách  thủ  đô  Hà  Nội khoảng 25 km về phía Tây Bắc. Toàn huyện có 21 xã. Có 10 xã được chọn ngẫu nhiên làm địa bàn nghiên cứu là: Dương Nội, Dương Liễu, An Khánh, Vân Canh, Đức Thượng, La Phù, Đông La, Sơn Đồng, Vân Côn và Cát Quế.

2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang.

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Phụ nữ kết thúc thai nghén trong thời gian từ 01/10/2004 đến 31/03/2005 tại 10 xã được chọn ngẫu nhiên của huyện Hoài Đức.

Tất cả hồ sơ kết thúc thai nghén có TBSK của mẫu nghiên cứu trong thời gian kể trên tại các cơ sở y tế trong vùng.

2.1. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu

Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu ngang mô tả:

Sử dụng bộ câu hỏi điều tra đã được thiết kế sẵn để thu thập các thông tin xung quanh việc mang thai và sinh đẻ, từ đó phát hiện những trường hợp nghi ngờ TBSK.

Những trường hợp nghi ngờ TBSK, điều tra viên sẽ điều tra hồi cứu hồ sơ bệnh án của những trường hợp này tại các cơ sở y tế (Trạm Y tế, Trung tâm Y tế huyện, Khoa sản bệnh viện tỉnh…) và phỏng vấn nhân viên y tế trực tiếp xử lý trường hợp đó.

Dựa vào tiêu chuẩn chẩn đoán của Bộ Y tế để khẳng định các trường hợp TBSK: tai biến sản khoa là những biến chứng gặp trong giai đoạn mang thai, chuyển dạ và trong thời kỳ sau khi sinh hoặc chấm dứt thai nghén 42 ngày (tức là thời kỳ hậu sản). Các tai biến này xuất hiện đột ngột, không có dấu hiệu báo trước và chiếm khoảng 85% các tử vong mẹ. Các TBSK bao gồm: băng huyết (mất máu sau đẻ trên 300ml), nhiễm khuẩn, vỡ tử cung, tiền sản giật/sản giật và uốn ván rốn.

Tai biến sản khoa (TBSK) luôn là một trong những nguy cơ ảnh hưởng tới sức khỏe người phụ nữ khi mang thai và sinh đẻ, đặc biệt nếu không được chăm sóc và xử trí kịp thời. Mục tiêu: (1) Xác định tỷ lệ mắc tai biến sản khoa tại cộng đồng ở một số xã của huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. (2) Mô tả một số yếu tố liên quan đến tai biến sản khoa tại cộng đồng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: điều tra cắt ngang 363 phụ nữ được chọn ngẫu nhiên trong tổng số 1530 phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ đã kết thúc thai nghén trong vòng 6 tháng (từ 1/10/2004 đến 31/3/2005) tại 10 xã của huyện Hoài Đức, Hà Tây. Kết quả: tỷ lệ tai biến sản khoa là 9,9%, tai biến sản khoa chủ yếu gặp trong nghiên cứu là băng huyết, tiếp đó là nhiễm trùng và tiền sản giật. Phụ nữ trên 40 tuổi thường dễ bị tai biến sản khoa (20%) và có sự liên quan chặt chẽ giữa tai biến sản khoa và triệu chứng chảy máu âm đạo (p < 0,05). Kết luận: Tỷ lệ tai biến sản khoa trong nghiên cứu này là 9,9%, chủ yếu là tai biến do chảy máu, có sự liên quan chặt chẽ giữa tai biến sản khoa và triệu chứng chảy máu âm đạo.
 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment