THỰC TRẠNG TỬ VONG TẠI HUYỆN KIM BẢNG, HÀ NAM

THỰC TRẠNG TỬ VONG TẠI HUYỆN KIM BẢNG, HÀ NAM

Trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế đã có sự thay đổi rõ rệt. Tuy nhiên, cùng với sự thay đổi đó, môi trường cũng bị ảnh hưởng cùng với hậu quả của chiến tranh chưa phai, đặc biệt là hậu quả của chiến tranh hoá học còn để lại hậu quả nặng nề cho nhân dân Việt Nam, trong đó không thể không nhắc tới các cựu chiến binh đã tham gia chiến trường B, C.  Với hệ thống cung cấp số liệu về tình hình bệnh tật cũng như tử vong ở các địa phương đến trung ương còn nhiều vấn đề bất cập, thiếu cấp nhật cũng như độ tin cậy, ngành y tế nói riêng, các ngành kinh tế khác nói chung cần có hệ thống thu thập, cung cấp thông tin, số liệu chính xác để có cơ sở cho các nhà  kế  hoạch  xây  dựng  chiến  lược  ngắn  hạn, trung hạn cũng như dài hạn cho ngành cũng như cho tổng thể nền kinh tế chung chính xác và khả thi. Ở nước ta, nền kinh tế cũng như các điều kiện xã hội ngày càng được cải thiện, nâng cao nên sức khoẻ nhân dân nói chung đang được phát triển theo mô hình của các nước phát triển [5, 8]. Kết quả đó có vai trò to lớn của ngành y tế với sự đầu tư ngày càng tăng của Nhà nước. Tuy nhiên, để đầu tư có hiệu quả không thể cứ tiếp diễn “bình quân chia đều” mà cần phải có trọng điểm, có thứ tự ưu tiên. Ở các nước phát triển, hệ thống giám sát bệnh tật cũng như tử vong khá hoàn thiện và chặt chẽ nên những thay đổi mô hình bệnh tật, cơ cấu  tử  vong  dễ  dàng  phát  hiện  những  nguyên nhân và nguy cơ cao để có giải pháp can thiệp kịp thời, làm giảm nguy cơ tối đa đối với sức khoẻ cho cộng  đồng  [6].  Những  nghiên  cứu  về  mô  hình bệnh tật ở nước ta đã được triển khai nhưng chưa nhiều và chưa đủ cũng như chưa kịp thời để giúp cho  các  nhà  quản  lý,  đặc  biệt  các  nhà  lập  kế hoạch có cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch phù hợp, đầu tư có trọng điểm hơn. Trong khi hệ thống giám sát bệnh tật và tử vong của chúng ta chưa thực sự có hiệu quả, đề tài tiến hành nghiên cứu tình hình tử vong từ 2002 – 2004 tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam nhằm mục tiêu:
1. Đánh giá các nguyên nhân liên quan đến tình hình tử vong trong ba năm tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.
2. Xác định gánh nặng tử vong theo nhóm tuổi.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các trường hợp tử vong thuộc dân số của huyện Kim Bảng – tỉnh Hà Nam từ 01 tháng 01 năm 2002 đến 31 tháng 12 năm 2004. Các đối tượng này thuộc diện quản lý theo hộ khẩu của địa phương.
Các đối tượng được phân theo giới và nhóm tuổi của Tổ chức Y tế Thế giới để tính số năm sống bị mất do chết sớm.Dân số và tháp dân số do Trung tâm kế hoạch hoá gia đình huyện cung cấp.
Thông tin về nguyên nhân tử vong do chủ hộ hoặc những người thân chăm sóc bệnh nhân cung cấp.Các thông tin được bổ sung bằng các giấy khám, đơn thuốc hoặc hồ sơ đã điều trị tại các bệnh viện.
 
2. Phương pháp nghiên cứu
Áp dụng phương pháp điều tra hồi cứu bằng bộ phiếu công cụ “Giải phẫu lời nói” (Verbal Au- topsy) [7]. Điều tra viên là các bác sỹ của trung tâm y tế huyện được tập huấn và tiến hành làm pilot rút kinh nghiệm trước khi triển khai điều tra chính thức.
Tiến hành giám sát: Kiểm tra ngẫu nhiên 10% số phiếu thu được để rút kinh nghiệm.
Xử lý số liệu theo phần mềm của Tổ chức Y tế Thế giới cho nghiên cứu gánh nặng bênh tật (Burden of diseases) để tính số năm bị mất đi do chết sớm so với tuổi thọ trung bình của người
 Nhật là 83 (Nam 79, Nữ 86) [7].Tiến hành nghiên cứu hồi cứu gánh nặng tử vong tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam từ 2002 đến 2004 băng bộ công cụ “Giải phẫu lời nói” (Verbal Autopsy). Mục tiêu: (1) Đánh giá các nguyên nhân liên quan đến tình hình tử vong trong ba năm tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam và (2) Xác định gánh nặng tử vong theo số năm bị mất do chết sớm. Đối tượng: Toàn bộ các trường hợp tử vong từ ngày 1 tháng 1 năm 2002 đến ngày 31 tháng 12 năm 2004 thuộc dân số quản lý của huyện. Phương pháp: Phân tích theo đánh giá gánh nặng tử vong của WHO. Kết quả: Tỷ lệ tử vong năm 2004 (5,2‰) tăng 1,22 lần so với năm 2002 (4,52‰). Số năm sống bị mất do chết sớm ở nhóm 0 – 4 tuổi và > 70 tuổi trong cả ba năm đều cao hơn các nhóm khác. Kết luận: (1) Tỷ lệ tử vong trên 103 người tăng do bệnh không truyền nhiễm và tai nạn ngộ độc từ 2002 đến 2004 (KTN: 3,26 – 4,03/103; TNNĐ: 0,53 – 0,58/103): trong đó ở nhóm nam cao hơn ở nữ. Đối với nguyên nhân tử vong do các bệnh truyền nhiễm, có xu hướng giảm từ 2002 đến năm 2004 (0,73 – 0,58/103) nhưng ở nam giới giảm nhiều hơn so với nữ giới.(2) Số năm bị mất do chết sớm trên 103 dân liên quan nhiều đến nhóm tuổi: cao ở các nhóm > 60 (99,95 đến 160,72 năm/103 người) và 0 – 4 tuổi (86,66 – 149,59 năm/ 103 người).
 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment