TìM HIểU ảNH HƯởNG CủA MộT Số YếU Tố SINH SảN TớI Tỷ Lệ MắC UNG THƯ Cổ Tử CUNG ở PHụ Nữ MIềN BắC VIệT NAM
TìM HIểU ảNH HƯởNG CủA MộT Số YếU Tố SINH SảN TớI Tỷ Lệ MắC UNG THƯ Cổ Tử CUNG ở PHụ Nữ MIềN BắC VIệT NAM
Đoàn trọng Trung, Lương Xuân Hiến,
Đại học Y Thái Bình
TÓM TẮT
Nghiên cứu bệnh – ch ứng nhằm tìm hi ểu mối liên quan giữa một số yếu tố sinh sản với tình trạng ung thư cổ tử cung ở phụ nữ Việt Nam. Được thực hiện tại 12 tỉnh miền Bắc. Đối tượng nghiên cứu bao gồm 611 ca bệnh (ung thư CTC) và 1833 ca chứng (không bị ung thư CTC). Kết quả cho thấy: 1) Nguy cơ mắc ung thư CTC cao hơn ở các nhóm phụ nữ: hiện vẫn còn kinh nguyệt, tuổi lần đầu có kinh từ 10-18, đã từng mang thai, tuổi có thai lần đầu là dưới 22, đã từng nạo hút thai, số l ần nạo hút thai từ 2 lần trở lên, đã từng sảy thai, tuổi quan hệ tình dục lần đầu dưới 22 và có nhiều hơn 2 bạn tình trong đời sống. 2) Không có mối liên quan giữa ung thư CTC với các yếu tố là: điều trị bằng hormone sau khi
mất kinh, số lần sảy thai, từng có thai chết lưu, sử dụng các BPTT như thuốc uống, thuốc tiêm, đặt DCTC, đặt Quinacrine và tri ệt sản bằng cắt vòi trứng. 3) Cần có thêm nhi ều nghiên cứu khác với quy mô rộng hơn nữa để góp phần xác định nguyên nhân mắc bệnh, từ đó giúp phát hiện sớm và điều trị kịp thời cho người bệnh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Diệu (2007), Nghiên cứu đánh giá phương pháp điều trị tia xạ tiền phẫu trong ung thư CTC giai đoạn IA đến IIA bằng kỹ thuật nạp nguồn sau. Luận án thạc sỹ y họcTrường Đại học Y Hà Nội.
2. Vũ Hô và cộng sự (2007), “Nhận xétđặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị 97 ca ung thư CTC giai đoạn IA-IIA tại bệnh viện đa khoa trung ương Thái Nguyên từ 1997-2007”
3. Nguyễn Chấn Hùng (2004), Ung thư học nội khoa. Nhà xuất bản Y học Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2004, tr. 18-19.
4. Đặng Thị Phương Loan, Khương Văn Duy (2000), “Các nguy cơ ung thư CTC, một nghiên cứu bệnh chứng tại Bệnh viện K Hà Nội”. Tạp chí Thông tin y dược, Số Chuyên đề ung thư 8/2000, tr. 205-213.
5. Nguyễn Mạnh Quốc (1996), “Đặc điểm dịch tễ học ung thư CTC tại thành phố Hồ Chí Minh 1995-1996”. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 2, Số 4/1998, tr.225-230.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất