Tính chất gia đình ở những bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị tại khoa nội tiết chuyển hoá và đái tháo đường, bệnh viện Bạch Mai
Đái tháo đường (ĐTĐ) là loại bệnh lý rối loạn chuyển hoá glucid mạn tính, bệnh ngày càng phổ biến và có xu hướng gia tăng mạnh mẽ. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới năm 1985, số người bị ĐTĐ trên thế giới là 30 triệu người. Đến năm 2000, con số này là 174,5 triệu người và dự báo đến năm 2015 con số này sẽ là 300 triệu người. Trong các loại bệnh lý của ĐTĐ, typ 2 là phổ biến (trên 90%). Trung tâm kiểm soát và phòng bệnh của Mỹ năm 2005 thống kê cho thấy ĐTĐ typ 2 chiếm tới 6% dân số trong đó có chủng tộc người chiếm tới 10% và trong năm 2000, ĐTĐ là nguyên nhân thứ sáu gây tử vong [2]. Theo thống kê gần đây, Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ gia tăng ĐTĐ lớn nhất trên thế giới. Ở Hà Nội, theo điều tra năm 1999, tỷ lệ ĐTĐ chiếm 1,01% dân số, ở Huế là 0,96% (1996) và ở thành phố Hồ Chí Minh là 2,52% (1992 – 1993) [5]. Đến năm 2008, số người ĐTĐ chiếm 5,7% dân số. Lúc khởi phát của bệnh ĐTĐ là rối loạn chuyển hoá glucid, nhưng sau đó kéo theo rối loạn chuyển hoá protid, lipid, các chất khoáng và gây những biến chứng nặng nề, ảnh hưởng đến sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của người bệnh. Theo Erasmus R.T. và cộng sự nghiên cứu trên bệnh nhân ĐTĐ ở Nam Phi cho thấy trong số bệnh nhân da đen bị ĐTĐ typ 2 có 27,3% tổng số người có tiền sử gia đình từ 2 người trở lên cùng bị ĐTĐ và trong số họ những người là họ hàng bậc 1 (bố mẹ, con, anh em ruột) chiếm tới 87,8%. Các tác giả cũng nhận thấy vai trò ảnh hưởng của người mẹ là quan trong trong việc di truyền bệnh ĐTĐ cho thế hệ sau [1]. Các nhà khoa học tại Đại học Michigan đã điều tra trong số những người phụ nữ đã có con để tìm mối liên quan giữa ĐTĐ ở cha mẹ hoặc anh em với người phụ nữ bị ĐTĐ thai kỳ. Nguy cơ cao hay gặp ở người phụ nữ ĐTĐ thai kỳ có mẹ ĐTĐ (OR = 3), hoặc cha bị ĐTĐ (OR = 3,3), hoặc anh em bị ĐTĐ (OR = 7,1), trong đó nguy cơ cao nhất nằm trong nhóm phụ nữ có 1 người anh em bị ĐTĐ [3]. Nguyên nhân gây bệnh ĐTĐ tuỳ theo từng typ bệnh trong đó ĐTĐ typ 2 nguyên nhân có thể do di truyền hoặc do tác động của yếu tố môi trường. Với nguyên nhân rối loạn vật chất di truyền người ta đề cập đến các loại đột biến gen và kiểu di truyền đa nhân tố gây ĐTĐ. Do có tính chất di truyền đồng thời chịu ảnh hưởng lớn của lối sống và điều kiện xã hội, nên bệnh ĐTĐ gặp có tính chất gia đình chiếm tỷ lệ cao.
Nghiên cứu tính chất gia đình và tìm hiểu yếu tố nguy cơ, đưa ra những khuyến cáo góp phần làm giảm tỷ lệ bệnh trong cộng đồng là việc làm cần thiết. Chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu đề tài với mục tiêu: Mô tả tính chất gia đình của bệnh ĐTĐ ở các bệnh nhân đang điều trị tại khoa nội tiết chuyển hoá và đái tháo đường bệnh viện Bạch Mai.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
– Đối tượng được chọn vào nghiên cứu là các bệnh nhân (BN) ĐTĐ điều trị nội trú tại khoa Nội tiết – ĐTĐ bệnh viện Bạch Mai trong 2 năm 2007- 2008 chọn đến khi đủ cỡ mẫu 500.
+ Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân:
BN được chẩn đoán ĐTĐ theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới 1999:
Đường máu lúc đói (sau bữa ăn cuối cùng 8h) làm ít nhất 2 lần ≥ 7,0mmol/l (200mg/dl) kết hợp với các triệu chứng của ĐTĐ như uống nhiều, đái nhiều. Xét nghiệm được làm ít nhất 2 lần. Hoặc đường máu sau 2h làm nghiệm pháp tăng đường huyết ≥ 11,1mmol/l (200mg/dl).
+ Tiêu chuẩn loại trừ BN khỏi nghiên cứu:
– BN chỉ có rối loạn dung nạp glucose (xét nghiệm) chưa rõ chẩn đoán ĐTĐ.
– BN có các biến chứng cấp tính như hôn mê toan ceton, hôn mê tăng áp lực thẩm thấu, nhiễm trùng cấp tính.
2. Phương pháp nghiên cứu
– Phương pháp nghiên cứu mô tả được thực hiện như sau: tiến hành thu thập thông tin bằng phương pháp làm bệnh án, xây dựng gia hệ những BN ĐTĐ điều trị tại khoa Nội tiết – Đái tháo đường bệnh viện Bạch Mai. Số lượng bệnh nhân là 500.
– Thông tin thu nhập gồm: tuổi, giới, tiền sử có người trong gia đình bị ĐTĐ, đường huyết, typ bệnh ĐTĐ được chẩn đoán tại bệnh viện Bạch Mai.
Xử lý số liệu và phân tích kết quả: Trên máy tính với phần mềm SPSS 10.0, Excel.
Mục tiêu: Mô tả tính chất gia đình của các bệnh nhân đái tháo đường typ 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 500 bệnh nhân đái tháo đường điều trị tại khoa Nội tiết – Chuyển hoá và đái tháo đường, bệnh viện Bạch Mai (2007 – 2008). Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả. Kết quả: trong 500 bệnh nhân đái tháo đường: có 218/500 nam (43,6%) và 282/500 nữ (56,4%); Typ 1: 14/500 (2,8%); Typ 2: 486/500 (97,2%). Tính chất gia đình của 486 bệnh nhân đái tháo đường typ 2: 1) Số bệnh nhân có tiền sử gia đình đái tháo đường là 162/486 = 33,2% tổng số bệnh nhân. 2) Số bệnh nhân đái tháo đường typ 2 có họ hàng cũng bị đái tháo đường loại bậc 1 là chủ yếu (88,3%), bậc 2 (9,9%), bậc 3 (1,8%). 3) Số bệnh nhân trong gia đình có 1 người nữa cũng bị đái tháo đường chiếm tỷ lệ cao nhất 75,3%, có 2 người (21%), 3 người (0,6%), 4 người (0,6%) và 5 người (2,5%). 4) Số bệnh nhân đái tháo đường chỉ có mẹ bị đái tháo đường (32,9%) cao hơn là chỉ có bố bị đái tháo đường (23%), số có cả hai bố mẹ bị đái tháo đường là 13,3%. 5) Số bệnh nhân có anh em ruột trong gia đình cũng bị đái tháo đường (30,8%). Kết luận: số bệnh nhân đái tháo đường typ 2 có tính chất gia đình chiếm 33,2%; vai trò nổi trội di truyền bệnh cho con cái ở những người mẹ bị đái tháo đường typ 2 so với người bố.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích