TÍNH GIÁ TRỊ VÀ ĐỘ TIN CẬY CỦA THI OSCE SẢN KHOA CHO SINH VIÊN Y NĂM THỨ TƯ NĂM HỌC 2014-2015
TÍNH GIÁ TRỊ VÀ ĐỘ TIN CẬY CỦA THI OSCE SẢN KHOA CHO SINH VIÊN Y NĂM THỨ TƯ NĂM HỌC 2014-2015
Đoàn Thị Thu Hoa1, Âu Nhựt Luân2
TÓM TẮT :
Đặt vấn đề: Việc thi OSCE còn tương đối mới đối với nhiều bộ môn, hiện thời OSCE đang được sử dụng tại Bộ môn Sản, khoa Y – Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh.
Mục tiêu: Xác định tính giá trị và độ tin cậy của kỳ thi OSCE Sản cho sinh viên y năm thứ tư trong năm học 2014-2015.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Dữ liệu kết quả thi OSCE của 592 sinh viên y năm thứ tư tham gia 4 kỳ thi OSCE trong năm học 2014-2015, các kết quả kiểm tra của thực hành lâm sàng bao gồm các điểm OSAT, miniCEX, thi kỹ năng tại skillslab, điểm IRAT; và điểm thi lý thuyết MCQ cũng được thu thập và phân tích. Ở đợt 2 và 3 có 25-30 sinh viên thi qua các trạm với 2 giảng viên cùng chấm. Phỏng vấn người chịu trách nhiệm chính trong việc ra đề thi về test blueprint, đồng thời một nhóm 4 giảng viên bộ môn Sản cùng xem lại nội dung trạm thi có phù hợp có đại diện được lĩnh vực nội dung cần lượng giá không.
Kết quả: Độ tin cậy giữa các giám khảo tính bằng hệ số tương quan Intraclass Correlation Coefficient (ICC) từ 0,684-0,985 có ý nghĩa thống kê (p <0,05). Độ tin cậy từng trạm OSCE tính bằng hệ số Cronbach alpha từ 0,208-0,779, độ tin cậy của từng kỳ thi 3 trạm từ 0,315-0,554 qua 4 đợt. Bộ môn chưa xây dựng test blueprint cụ thể. Khi xem xét đề thi OSCE phân bố theo các chủ đề và theo mục tiêu, hệ số tương quan Pearson correlation giữa 4 đợt thi đa số không có ý nghĩa thống kê. Điểm OSCE có tương quan có ý nghĩa thống kê (p <0,05) với điểm IRAT và điểm MCQ với hệ số Pearson Correlation thấp từ 0,253-0,320 đối với IRAT và từ 0,245-0,358 đối với MCQ.
Kết luận: Đề thi OSCE Sản cho sinh viên y năm thứ tư năm học 2014-2015 có độ tin cậy thấp đến trung bình và không đủ bằng chứng để ủng hộ tính giá trị kỳ thi.
Lượng giá sinh viên đóng vai trò quan trọng trong chương trình giảng dạy. Lượng giá thực hành với hình thức thi OSCE (Objective structured clinical examination) được sử dụng lần đầu tiên bởi tác giả Harden vào năm 1972 ở nước Anh, cho đến nay OSCE được sử dụng rộng rãi trong các trường y(1). Tại Mỹ, theo khảo sát của Liaison Committee for Medical Education đối với 142 trường y được kiểm định có 139 trường có sử dụng ít nhất một kỳ thi OSCE trong các khóa học(2). Tại khoa Y – Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, việc thi OSCE còn tương đối mới đối với nhiều bộ môn, hiện thời OSCE đang được sử dụng tại Bộ môn Sản
TÍNH GIÁ TRỊ VÀ ĐỘ TIN CẬY CỦA THI OSCE SẢN KHOA CHO SINH VIÊN Y NĂM THỨ TƯ NĂM HỌC 2014-2015