Tình hình kháng thuốc trong lao phổi tái phát tại Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Hà Nội trong 2 năm 2006 – 2008

Tình hình kháng thuốc trong lao phổi tái phát tại Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Hà Nội trong 2 năm 2006 – 2008

Nghiên cứu 68 bênh nhân (BN) lao phổi điều trị nội hoặc ngoại trú tại Bênh viên Lao và Bênh phổi Hà Nội từ tháng 10 – 2006 đến 8 – 2008, gồm 2 nhóm: nhóm lao phổi tái phát (38 BN); nhóm lao phổi mới AFB (+) (30 BN). Kết quả nghiên cứu cho thấy tình hình kháng thuốc ở nhóm lao tái phát của Hà Nội cao so với thế giới, với 89,5% chủng vi khuẩn (VK) lao có kháng thuốc. Tỷ lê kháng đối với mỗi loại thuốc như sau: ethambutol 71,1%, INH 65,8%, streptomycin 65,8%; rifampicin 47,4%. Về mức độ kháng thuốc: tỷ lệ kháng với một thuốc duy nhất là 18,4%, trong đó kháng với rifampicin 5,2%, với INH 7,9%. Tỷ lệ kháng 2 hoặc 3 thuốc là 39,5%. Kháng đa thuốc có tỷ lệ khá cao (31,6%).

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁPNGHIÊN cứu.
1.Đôi tượng nghiên cứu. 68 BN lao phổi điều trị nôi trú hoặc ngoại trú tại Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Hà Nôi từ tháng 10 – 2006 đến 8 – 2008, gồm 2 nhóm: nhóm lao phổi tái phát (38 BN); nhóm lao phổi mới
AFB dương tính (30 BN). Tiêu chuẩn chẩn đoán lao phổi, tiêu chuẩn xác định lao phổi mới và lao phổi tái phát theo
Chương trình Chống lao quốc gia (1999) [1]. Toàn bô BN nghiên cứu được theo dõi và điều trị đủ thời gian 8 tháng tại bệnh viện hoặc tại phòng khám lao quận, huyện thuộc TP.Hà Nôi, có hồ sơ lưu trữ. BN đã dùng thuốc đủ thời gian, kết quả xét nghiệm đờm AFB âm tính ở tháng thứ
5, tháng thứ 8 với hóa trị liệu ngắn hạn được coi là khỏi bệnh [4]. Nghiên cứu không tiến hành trên lao trẻ em và đồng nhiễm lao/HIV.
2.Phương pháp nghiên cứu.
-Nuôi cấy VK lao bằng kỹ thuật MGIT tại Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Hà Nội trên hệ thống BACTEC MGIT 960 của hãng BECTON DISKINSON (Hoa Kỳ). Mau đờm hoặc dịch rửa phế quản (số lượng 5 ml) lấy trước khi điều trị thuốc lao và đựng trong ống nghiệm vô khuẩn.
Nuôi cấy trên môi trường lỏng Middlebrook 7H9 có chất huỳnh quang nằm ở đáy ống MGIT (ống thuỷ tinh chứa 4 ml canh cấy Middlebrook, 110 ml chất huỳnh quang nằm ở lớp silicol ở đáy ống; 10% CO2; pH 6,7). Cho thêm OADC vào ống nuôi cấy (hỗn hợp oleic, albumin, dextrose, catalase) và PANTA (hỗn hợp kháng sinh polymycin B; amphoterecin B; nalidixic acid; trimethoprim; azlocillin). Sau đó, cấy bệnh phẩm. Hoạt động hô hấp của VK lao sẽ tiêu thụ oxy và thải CO2. Nồng độ oxy giảm làm cho chất huỳnh quang phát quang dưới tác dụng tia cực tím bước sóng 365 nm. Máy tự động báo kết quả 60 phút/lần.
-Xác định kháng thuốc tiên phát bằng kháng sinh đồ trên hệ thống máy BACTEC MGIT 960. Nghiên cứu này chỉ làm được kháng sinh đồ với 4 thuốc chống lao dòng thứ nhất: rifampicin (R), isoniazid (H), ethambutol (E) và streptomycin (S). Kháng sinh đồ được làm trong vòng 1 – 3 ngày kể từ khi có kết quả nuôi cấy dương tính. Đọc kháng sinh đồ hàng ngày từ ngày thứ ba sau khi cấy. Kết quả kháng thuốc tự động hiển thị trên màn hình và bằng âm thanh. Máy tự động kiểm tra 60 phút/lần. Quy trình cấy và kháng sinh đồ tối đa 14 ngày, có thể cho kết quả sớm nhất 3 ngày kể từ ngày cấy.
-Tiêu chuẩn chẩn đoán lao kháng thuốc: VK lao kháng với một trong những thuốc lao dòng thứ nhất: H, R, pyrazinamid (Z), E và S. Kháng đa thuốc (multidrug-resistant tuberculosis, viết tắt là MDR-TB): VK lao kháng với ít nhất 2 thuốc H và R và có thể kháng thêm những thuốc khác (Z, E, H).
-Kháng thuốc tiên phát: kháng thuốc xuất hiện ở những BN chưa bao giờ được sử dụng thuốc lao. Nghiên cứu này không xác định kháng thuốc thứ phát: là kháng thuốc xuất hiện ở BN đang điều trị lao mà trước đó những thuốc này có nhạy cảm với VK lao. Quản lý và xử lý số liệu nghiên cứu bằng phần mềm Epi.info 6.04.
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment