Tình hình sử dụng dịch vụ y tế của nhân dân huyện Ba vì – kết quả theo dõi tại cơ sở thực địa dịch tễ học năm 1999

Tình hình sử dụng dịch vụ y tế của nhân dân huyện Ba vì – kết quả theo dõi tại cơ sở thực địa dịch tễ học năm 1999

Theo dõi tình hình sức khoẻ và sử dụng dịch vụ y tế là một hoạt động rất quan trọng trong việc cung cấp các các số liệu cần thiết cho lập kế hoạch và phát triển chính sách y tế [1,3,4]. ở những nước phát triển, các số liệu y tếđược thu thập khá đầy đủ một cách hệ thống từ sổ sách và báo thường kỳ cũng như là từ các cuộc điều tra cộng đồng. Những thông tin này được phổ biến trong các báo cáo y tế công cộng, nhiều n−ớc đã phát triển một hệ thống báo cáo chặt chẽ không chỉ về tỷ lệ chết và tỷ lệ mắc bệnh mà còn bao gồm tình hình ốm và sử dụng dịch vụ y tế cũng như các yếu tố liên quan [2,3].
Cũng như các nước đang phát triển khác,Việt Nam thiếu nhiều thông tin y tế thiết yếu cho lập kế hoạch và phát triển chính sách . Các số liệu thống kê y tế rất hạn chế, đặc biệt là các số liệu ở cộng đồng [6,7].
Cơ sở thực địa dịch tễ học Ba Vì (Fila Bavi) được thành lập năm 1998 với mục đích cung cấp các số liệu giá trị cho lập kế hoạch và chính sách y tế. Cùng với nhiều nghiên cứu đã và đang được thực hiện tại Ba vì, nghiên cứu về tình hình sử dụng dịch vụ y tế là rất cần thiết để vẽ lên một bức tranh toàn cảnh về tình hình sức khoẻ của nhân dân một vùng nông thôn Việt nam.
Mục tiêu
Nghiên cứu này nhằm mô tả và phân tích tình hình sử dụng dịch vụ y tế của nhân dân huyện Ba Vì trong mối liên quan với các yếu tố nh− giới, trình độ văn hoá, nghề nghiệp và tình trạng kinh tế.
I.    Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
1.    Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu này là nghiên cứu cắt ngang, đ−ợc thực hiện tại huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây, Việt Nam từ tháng 9 đến tháng 12 năm 1999.
Cỡ mẫu: 11089 hộ gia đình gồm 48919 cá nhân. Cỡ mẫu này chiếm khoảng 20% toàn bộ dân số huyện Ba Vì.
2.    Chọn mẫu
Các hộ gia đình được chọn vào nghiên cứu sử dụng ph−ơng pháp chọn mẫu chùm theo kỹ thuật PPS và bốc thăm ngẫu nhiên. Đơn vị chọn mẫu là các làng, một số làng nhỏ đ−ợc ghép lại thành một đơn vị chọn mẫu và ng−ợc lại, một số làng lớn đ−ợc tách ra thành hai đơn vị chọn
mẫu. 67 chùm đ−ợc chọn thuộc 29 xã trong tổng số 32 xã gồm 352 đơn vị mẫu .
3.    Thu thập thông tin
Thông tin đ−ợc thu thập bởi 32 điều tra viên có trình độ văn hoá từ cấp III trở lên, đ−ợc tuyển chọn và đào tạo cẩn thận trong vòng hai tuần. Để theo dõi và tăng c−ờng chất l−ợng của số liệu, 5% số cuộc phỏng vấn đ−ợc nhắc lại.
Các thông tin về sử dụng dịch vụ y tế cũng nh− là các thông tin cơ bản đ−ợc thu thập  bằng bộ  câu hỏi phỏng  vấn hộ  gia đình. Bộ câu hỏi này đã đ−ợc thử nghiệm
bằng điều tra thử.
4.    Phân tích số liệu
Số liệu được xử lý phần mền thống kê SPSS 9.0 và STATA 7.0. Các tr−ờng hợp không trả lời đều bị loại khỏi mẫu trong quá trình phân tích. Khi mô tả tình hình ốm và sử dụng dịch vụ y tế theo trình độ văn hoá và nghề nghiệp, chỉ những tr−ờng hợp lớn hơn 15 tuổi mới đ−ợc
đ−a vào phân tích.
5.    Các biến số sử dụng trong nghiên cứu
•    Sử dụng dịch vụ y tế: người ốm có thể tự điều trị; đến khám chữa bệnh ở  thầy  lang; đến cơ sở y tế tư nhân; đến trạm y tế; bệnh viện huyện; bệnh viện tỉnh hoặc bệnh viện trung
−ơng.
•    Trình độ văn hoá: Chia làm ba  nhóm gồm Mù chữ là những ng−ời không biết đọc và không biết viết. Phổ thông  gồm  những ng−ời có trình độ từ cấp 3 trở xuống và Đại học/cao
đẳng/trung học.
•    Tình trạng kinh tế hộ gia đình:  Tình trạng kinh tế đ−ợc chia thành 3 nhóm dựa trên phân loại của Bộ Lao động Th−ơng binh và Xã hôị đ−ợc áp dụng ở Ba Vì từ năm 1998. Phân loại này chủ  yếu dựa trên thu nhập quy đổi thành số ki lô gam thóc trung bình trên một đầu ng−ời trên một tháng. Rất nghèo- d−ới 15 ki lô gam thóc trên một đầu ng−ời trên  một tháng; Không nghèo- trên 20 ki lô  gam; Nghèo- là nhóm ở giữa nhóm rất nghèo và không nghèo.
•    Nghề  nghiệp được xác  định  là  công việc mang lại nguồn thu nhập chính và chiếm nhiều thời gian. Nghề nghiệp được chia thành 3 nhóm: nông dân, cán  bộ công nhân viên và nghề khác. Nông dân là những người chủ yếu làm việc trên đồng. Những người là cán bộ nhà nước và công nhân được tính vào nhóm cán bộ công nhân viên. Các nghề khác như nội trợ, thợ thủ công, buôn bán nhỏ, thất nghiệp được xếp vào nhóm nghề khác.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment