Tình hình sức khỏe và hành vi tìm kiếm dịch vụ y tế của học sinh tại các trường phổ thông Việt Nam

Tình hình sức khỏe và hành vi tìm kiếm dịch vụ y tế của học sinh tại các trường phổ thông Việt Nam

Nghiên cứu được tiến hành tại 3 vùng (thành thị, đồng bằng và miền núi) tại 3 tỉnh đại diện cho 3 vùng miền của cả nước (Phú Thọ, Quảng Bình và Đồng Nai). Mục tiêu: mô tả tỷ lệ ốm và hành vi tìm kiếm dịch vụ y tế khi bị ốm của học sinh tại các trường phổ thông ở Việt Nam năm 2008. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: áp dụng nghiên cứu cắt ngang (định lượng) để phỏng vấn 2773 học sinh lớp 4, lớp 8 và lớp 11 của trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông trong 9 huyện thuộc 3 tỉnh (Phú Thọ, Quảng Bình, Đồng Nai) đại diện 3 miền (Bắc, Trung, Nam) và cho 3 vùng (miền núi, đồng bằng và thành thị). Kết quả: trong 2 tuần qua học sinh thường mắc các bệnh cấp tính như sổ mũi (57%), ho (54%), sốt (30%) và đau họng, mũi, tai (30%). Tỷ lệ học sinh khai báo mắc các bệnh trường học như cận thị là 19% và cong vẹo cột sống là 4%. Học sinh thường tự chữa là nhiều nhất khi bị ốm trong 2 tuần qua (chiếm tỷ lệ 33%) rồi đến bệnh viện (21%) và đến các cơ sở khác như trạm y tế xã, y tế tư nhân và thầy thuốc. Đặc biệt không có học sinh nào báo cáo đến phòng y tế trường học đầu tiên khi bị ốm trong 2 tuần qua. Có sự khác biệt về hành vi tìm kiếm dịch vụ y tế đầu tiên trong lần ốm gần nhất trong 2 tuần qua theo vùng. Tỷ lệ học sinh tự chữa khi bị ốm trong 2 tuần qua cao nhất ở miền núi (30%) và thấp nhất ở thành thị (26%) với p < 0,05. Kết luận: 1/2 học sinh bị ốm có nhu cầu chăm sóc sức khỏe và 1/3 trong số đó tự chữa, không có HS nào điều trị tại phòng y tế trường.
Học  sinh  luôn  là  mối  quan  tâm  của  gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Sức khỏe của học sinh hôm nay có ý nghĩa là sức khỏe của dân tộc mai sau. Mặc dù đã có nhiều quan tâm và nỗ lực của Đảng và Nhà nước, của toàn xã hội trong thời gian qua, nhưng cho đến nay sức khỏe của học sinh vẫn còn nhiều vấn đề cần được quan tâm. Công tác khám sức khoẻ định kỳ, quản lý hồ sơ sức khoẻ cho học sinh hầu hết chưa thực hiện theo quy định [7]. Toàn
quốc chưa có số liệu chính thức về các bệnh
vùng miền của cả nước: Phú Thọ, Quảng Bình và Đồng Nai từ tháng 1/2008 – tháng 12/2008.
3.    Đối tượng nghiên cứu: học sinh lớp 4, lớp 8 và lớp 11 tại các trường phổ thông điều tra.
4.    Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
Cỡ mẫu cho nghiên cứu điều tra ở học sinh từng khối (lớp 4, lớp 8 và lớp 11) được tính theo công thức tính cỡ mẫu cho một nghiên cứu tỷ lệ trong quần thể
Đơn vị chọn mẫu là học sinh. Số học sinh mỗi tỉnh được nghiên cứu là: trường học như cận thị và cong vẹo cột sống ở học sinh [6, 7]. Chính vì vậy, nghiên cứu về tình hình sức khỏe cũng như hành vi tìm kiếm dịch vụ y tế khi bị ốm của học sinh là một nhiệm vụ cần thiết, nó giúp cho các nhà quản lý và hoạch định chính sách đẩy mạnh các hoạt động nhằm nâng cao sức khỏe cho học sinh trong thời gian tới. Bài báo này là một phần kết quả trong đề tài nghiên cứu cấp Bộ 2007 – 2009 nhằm mục tiêu:
(1- /2 ) ( ´ p)2
Trong đó:
Với độ tin cậy 95%: Z = 1,96
p = 0,4 (là tỷ lệ học sinh mắc bệnh cong vẹo cột sống, cần được chăm sóc sức khỏe, ước tính từ nghiên cứu của Trần Văn Dần và cộng sự năm 2005).

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment