Tính lai chéo ngược ở mẫu sán lá gan lớn Fasciola sp thu nhận trên một bệnh nhân tại Nghệ An
Bệnh sán lá gan lớn (SLGL) do loài sán Fasciola hepatica hoặc F. gigantica gây nên. Sán chủ yếu ký sinh trên động vật ăn cỏ và ký sinh trên người. Cả hai loài này phân bố ở Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Lào, Campuchia. Bệnh SLGL ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ cộng đồng và gây tổn thương nặng nề gan mật, có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm như tắc mật, xơ hoá đường mật và có liên quan đến ung thư gan mật. Tại Việt Nam, sán lá gan lớn lưu hành ít nhất ở 47 tỉnh với gần 6.000 bệnh nhân, có nơi tỷ lệ nhiễm 11,1% như ở Khánh Hoà [9]. Bệnh chủ yếu gặp ở người lớn, nhưng cũng có thể gặp ở trẻ em và chính ở trẻ em việc chẩn đoán khó khăn hơn, có trẻ 10 tháng tuổi đã bị bệnh sán lá gan lớn. Bệnh càng ngày càng phát hiện nhiều hơn, có thể do biến đổi gen nên có sự thích nghi với ký sinh trên người. Năm 2002, Lê Thanh Hoà và Nguyễn Văn Đề đã xác định sán lá gan lớn Fasciola sp. Ở Việt Nam bằng sinh học phân tử hệ gen ty thể sử dụng gen nad1 (nicotinamide dehydrogenase subunit 1) so sánh với nhiều chủng F.gigantica và
F. hepatica khác nhau của thế giới cho thấy tất cả các mẫu sán trưởng thành thu thập trên gia súc và người tại Lạng Sơn, Bình Định, Lai Châu, Hà Nội và Hoà Bình là F.gigantica và cho thấy sán lá gan lớn của Việt Nam có thể là loài lai với F. gigantica. Năm 2004, Nguyễn Văn Đề và Lê Thanh Hoà đã sử dụng ấu trùng sán lá gan lớn nở từ trứng thu thập trên bệnh nhân tại Nghệ An cũng đã xác định loài sán là F.gigantica có lai với F. hepatica. Các tác giả đã khẳng định có sự lai tự nhiên giữa F. gigantica với F. hepatica tại Việt Nam [5].
Nếu chỉ dựa vào kết quả quan sát về hình thái của những con sán lá gan lớn thu được để đánh giá đưa ra kết luận chúng thuộc loài F. hepatica hay F. gigantica gây bệnh thì không thật sự chính xác [2, 5, 6]. Hơn nữa, những kết quả của các công trình nghiên cứu trên thế giới về hình thái học của loài sán lá gan lớn Fasciola spp đã cho thấy sự thay đổi kích thước của chiều dài, chiều rộng cũng như khoảng cách của các giác miệng phụ thuộc vào vật chủ ký sinh cuối cùng mà sán ký sinh [10] và phân biệt về hình thái học giữa hai loài sán lá gan F. gigantica và F. hepatica gặp rất nhiều khó khăn trong việc định loài ở các vùng địa lý có mặt cả hai loài gây bệnh cho người và gia súc [7]. Do vậy, kết luận chính xác sán lá gan lớn ký sinh và gây bệnh thuộc loài nào và biến đổi di truyền như thế nào đòi hỏi cần khảo sát vùng gen ITS-2 của nhân (dòng bố) và gen ty thể cox1 (dòng mẹ) để xác định loài thuần (pure) hay loài lai (introgressive hybrid) [2, 5, 6].
Nhiều nghiên cứu giám định và phân biệt loài sán lá gan lớn Fasciola spp. đã sử dụng chỉ thị di truyền là ITS-2 (thuộc hệ gen nhân) và cox1 (thuộc hệ gen ty thể). Gen ITS-2 đã được sử dụng nhiều trong việc định loài đặc biệt đối với loài sán lá gan lớn [1, 4, 5]. Sự khác nhau giữa số lượng của các cặp nucleotide của gen ITS-2 là một đặc điểm để phân biệt giữa hai loài F. gigantica và F. hepatica: Sự thiếu hụt 1 nucleotid ở vị trí số 327 của ITS-2 (Thymin, T) làm cho tổng số nucleotide của ITS-2 còn 361, cho phép xác định gen ITS-2 đó sẽ thuộc về nhóm F. gigantica và số nucleotide là 362 thì gen ITS-2 thuộc nhóm F. hepatica [5, 7].
Trong bài báo này chúng tôi trình bày kết quả nghiên cứu khẳng định hiện tượng “lai chéo ngược” (introgressive hybridization) của sán lá gan lớn ký sinh trên người tại Việt Nam, qua thực hiện phân tích gen nhân ITS-2 và gen ty thể cox1 từ mẫu là một sán lá gan trưởng thành thu được từ một bệnh nhân người Nghệ An, có hình thái giống như F. hepatica.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Mẫu nghiên cứu
Sán lá gan lớn Fasciola sp trong túi mật của bệnh nhân nam giới 50 tuổi quê ở Nghệ An. Bệnh nhân này bị sỏi mật, đau hạ sườn phải và sốt, vào bệnh viện Việt Đức mổ lấy sỏi và bắt được một sán hình chiếc lá ngày 20/1/2009. Sán có dạng hình lá bưởi, kích thước dài 3,5cm, rộng 1,5cm, về hình thái tương tự như F. hepatica. Kết quả bước đầu xác định hình thái học sơ bộ là dạng trung gian giữa F. gigantica và F. hepatica, đặc biệt sán này đẻ trứng trong đường mật và trong tử cung sán chứa đầy trứng. Ký hiệu mẫu là FsphNA.
Nghiên cứu được thực hiện nhằm khẳng định hiện tượng lai chéo ngược ở sán lá gan lớn ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy chuỗi nucleotide ITS-2 (362 bp) của vùng giao gen ribosome và chuỗi nucleotide đoạn gen cox1 (độ dài 423 bp) phân tích cho thấy mẫu sán lá gan FsphNA mang tính chất di truyền hệ gen ty thể (cox1) theo “dòng mẹ” từ loài F. gigantica); trong khi đó tính di truyền hệ gen nhân theo “dòng bố” (ITS-2) thuộc về loài F. hepatica. Đây là một dạng trung gian, kết quả của “lai khác loài” (hybridization) giữa F. gigantica và F. hepatica, hay đúng hơn đó là kết quả của quá trình “lai chéo ngược” (introgressive hybridization). Sán lá gan lớn mẫu thu trên người tại Nghệ An đã đóng góp thêm bằng chứng khẳng định lai chéo ngược, một dạng di truyền đặc biệt của F. gigantica và F. hepatica gây bệnh cho người và gia súc ở vùng Đông Nam Á. Từ kết quả của nghiên cứu này cho thấy phân loại không chỉ dựa vào đặc điểm ngoại hình (hình thái học) mà cần thiết khảo sát đặc điểm gen của đối tượng, đặc biệt đối với các dạng có hình thái trung gian.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích