Tình trạng biếng ăn, đặc điểm nhân trắc và thực hành nuôi dưỡng trẻ dưới 15 tuổi đến khám tại trung tâm dinh dưỡng thành phố Hồ Chí Minh tháng 8 năm 2005

Tình trạng biếng ăn, đặc điểm nhân trắc và thực hành nuôi dưỡng trẻ dưới 15 tuổi đến khám tại trung tâm dinh dưỡng thành phố Hồ Chí Minh tháng 8 năm 2005

Mục tiêu:xác định tỷ lệ biếng ăn, đánh giá đặc điểm nhân trắc và thực hành nuôi dưỡng trẻ. Đối tượng và  phương  pháp  nghiên  cứu:nghiên cứu cắt ngang trên 602 trẻ  dưới  15 tuổi đến khám tại phòng khám Trung Tâm Dinh Dưỡng Thành phố Hồ Chí Minh tháng 8/2005.  Kết quả và kết luận:trẻ được gia đình nhận định là biếng ăn chiếm tỷ lệ 65% trẻ khám tại Trung tâm Dinh Dưỡng, trong số đó gần 93%  có cân nặng theo tuổi giảm trên 15% so với tiêu chuẩn cân nặng theo tuổi trung bình của quần thể tham khảo NCHS. Trẻ được gia đình nhận định là biếng ăn có cân nặng trung bình thấp hơn những trẻ không bị xemlà có biếng ăn 1,8 kg. Thời điểm bắt đầu xuất hiện biểu hiện biếng ăn thường gặp nhất là khi tập ăn dặm (32,49%) và sau một đợt bệnh (23,86%). Biểu hiện biếng ăn thường gặp nhất là không ăn hết thức ăn theonhu cầu (88,32%)
và ngậm thức ăn, không nhai nuốt (77,16%). Các hành vi dinh dưỡng có thể liên quan đến tình trạng biếng ăn bao gồm: số bữa ăn trong ngày, dạng thứcăn được dùng, số lượng thức ăn, lượng thực phẩm giàu đạm, và mức độ hoạt động thể chất quá năng động của trẻ.

Trẻ  suy  dinh  dưỡng  (SDD)  không  chỉ  ảnh hưởng đến cá nhân hay gia đình mà còn tác động
đến xã hội và nguồn nhân lực, sự phát triển vận động, trí tuệ, tầm vóc… của cả một thế hệ.Do đó chương trình phòng chống Suy Dinh Dưỡng trẻ em được Tổ Chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến khích và  hỗ  trợ.  Ở  Việt  nam,  hoạt  động  hiệu  quả  của chương  trình  giúp giảm  tỷ  lệ  suy  dinh  dưỡng  trẻ dưới  5  tuổi  trên  toàn  quốc  từ  51,5%  năm  1985 xuống còn 25,2% năm 2005. Tại Thành Phố Hồ
Chí Minh (TPHCM), tỷ lệ SDD giảm nhanh hơn, dẫn đầu toàn quốc (từ 50% so với 51,5 của toàn quốc  năm 1885  xuống còn 18,1%  so  với  33,8% của  toàn quốc  năm  1999  – 10,2%  so  với 25,2% của toàn quốc năm 2005), mức giảm đạt 2 – 4% mỗi năm trong giai đoạn 1978 – 2000. Thành tíchnày  nhờ  vào  sự  tăng  trưởng  của  nền  kinh  tế,  sự  phối hợp đồng bộ với các chương trình chăm sóc sức  khoẻ  ban  đầu  cũng  như  sự  gia  tăng  về  kiến  thức, thái độ, hành vi dinh dưỡng của cộng đồng giai đoạn mở cửa và hội nhập với thế giới.
Tuy nhiên, từ năm 2000, dù các yếu tố thuậnlợi tiếp tục gia tăng, tỷ lệ giảm SDD của TPHCM
lại chậm đi. Tốc độ giảm SDD chỉ còn trung bình 0,9%  mỗi  năm,  chỉ  bằng  1/3  so  với  giai  đoạn trước đây. Điều này tương tự với sự giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em ở một số nước khác như Thái lan, Trung Quốc. Malaysia, Philippin… Về vấn đề này, WHO đề cập đến nhiều yếu tố liên quan như thiên tai, các giai đoạn khủng hoảng kinh tế  ngắn hạn… nhưng quan trọng nhất là vai trò hỗ trợ của các chương trình dinh dưỡng theo hướng cung cấp thực phẩm và tư vấn kiến thức nuôi dưỡng trẻ em đã phát huy tác dụng tối đa, các vấn đề liên quan đến thiếu lương thực thực phẩm và cách ăn uống phù  hợp  đã  đuợc  giải  quyết  về  căn  bản,  các trường hợp SDD còn lại có nguyên nhân đặc thù đòi hỏi các hướng giải quyết chuyên biệt hơn, ví dụ các bệnh lý về thực thể hay tâm lý, tâm thần kinh…  làm  ảnh  hưởng  đến  khả  năng  tiếp  nhận thức  ăn,  tiêu  hóa,  hấp  thu  của  trẻ.  Mục  tiêu chung: Đánh giá tỷ lệ biếng ăn, đặc điểm nhân trắc và hành vi nuôi dưỡng trẻ được gia đình nhận định  là  biếng  ăn  trong  số  trẻ  dưới  15  tuổi  đến khám tại Trung tâm Dinh Dưỡng TPHCM (TTDD
TPHCM). Mục tiêu cụ thể:
1. Xác định tỷ lệ trẻ biếng ăn đến khám tại  Trung tâm Dinh Dưỡng TP. Hồ Chí Minh.
2. Xác định cân nặng và chiều cao trung bình của nhóm trẻ được nhận định có biếng ăn vàso sánh với nhóm trẻ không biếng ăn.
3. Mô tả các biểu hiện thường gặp của biếng ăn và thời điểm xuất hiện biếng ăn.
4. Nhận định các hành vi dinh dưỡng có thể  liên quan đến TT biếng ăn

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment