Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi và thử nghiệm một số giải pháp can thiệp tại cộng đồng ở tỉnh Bắc Kạn
Suy dinh dưỡng (SDD) trong năm năm đầu tiên của cuộc đời để lại hâu quả khó hổi phục về sau, đặc biệt làm tăng nguy cơ bị các bênh rối loạn chuyển hoá như béo trệ và tiểu đường. Trẻ em dưới 5 tuổi dễ bị suy dinh dưỡng vì đó là thời kỳ có nhu cầu dinh dưỡng cao và là thời kỳ rất nhạy cảm với các bệnh tât. Thiếu kiến thức thực hành nuôi con hợp lý là một trong những nguyên nhân quan trọng gây nên tình trạng SDD của trẻ, các yếu tố khác bao gổm là thiếu sự chăm sóc đúng mức đối với bà mẹ có thai, vệ sinh môi trường kém, nhiễm trùng và ký sinh trùng như ỉa chảy, nhiễm giun sán, viêm đường hô hấp cấp tính, người chăm sóc trẻ thiếu kiến thức về dinh dưỡng và sức khoẻ. Trong đó, đặc biệt là chất lượng thức ăn bổ sung và thực hành cho trẻ ăn bổ sung không đúng đã góp phần làm cho tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi trở nên trầm trọng hơn [14], [20], [21], [75].
Trong lịch sử y học có rất nhiều bệnh nguy hiểm có tỷ lệ tử vong cao mà nguyên nhân của nó là thiếu một thành phần dinh dưỡng nào đó (thiếu vitamin C, bệnh tê phù, thiếu vitamin A, suy dinh dưỡng…). Nhờ áp dụng kiến thức dinh dưỡng vào chăm sóc sức khoẻ, nhiều loại bệnh bị đẩy lùi về quá khứ. Tuy vây, ở các nước nghèo vẫn còn nổi trội lên các vấn đề sức khoẻ do thiếu dinh dưỡng, các bệnh dinh dưỡng quan trọng nhất hiện nay là thiếu protein- năng lượng, thiếu vitamin A và bệnh khô mắt, thiếu máu dinh dưỡng, thiếu iode và bệnh bướu cổ [26].
Trẻ em là đối tượng cần được quan tâm đặc biệt. Sự phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần của trẻ em ngày hôm nay sẽ là sự hứa hẹn tốt đẹp cho sự phát triển của xã hội sau này “Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai”. Thế nhưng, “trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ”, sự chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ hoàn toàn khác với người lớn, cơ thể trẻ còn non nớt, rất nhạy cảm với yếu tố bên ngoài. Với sự phát triển chưa hoàn thiện về mặt sinh lý của cơ thể, khi thiếu ăn, khi tình trạng đói kéo dài, cơ thể sẽ thiếu chất để chuyển hoá và tổng hợp, sẽ ảnh hưởng đến tình trạng sức khoẻ, sự phát triển của bô não và tư duy. Hâu quả nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng đến khả năng học tập, lao đông sáng tạo, gây tổn thất lớn về kinh tế [24].
Hiên nay, theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới, các nước đang phát triển có khoảng 500 triệu trẻ em bị thiếu dinh dưỡng và hàng năm có 12,9 triệu trẻ chết vì bệnh tật như viêm phổi, ỉa chảy, ho gà. Trong đó SDD là nguyên nhân trực tiếp chiếm 50% [10]. Theo thống kê về tỷ lệ SDD qua các cuộc điều tra quốc gia từ 1980-1992 của 79 nước đang phát triển cho thấy tỷ lệ trẻ em SDD thiếu cân là 35,8%, tỷ lệ trẻ em còi cọc là 42,7%, tỷ lệ trẻ em gầy còm là 9,2%. Trong đó Châu Á có tỷ lệ SDD cao nhất so với các châu lục khác là 42% trẻ SDD; 47,1% trẻ em còi cọc và 10,8% trẻ gầy còm [84]. Tỷ lệ SDD giảm không đều nhau ở các nước Đông Nam Á giảm nhanh nhất 2/3 trẻ SDD thuộc vùng châu Á, 1/2 trẻ SDD sống ở vùng Nam Á [31]. Theo báo cáo mới đây của UNICEF, mặc dù một số nước đã đạt được những tiến bộ trong việc giảm tỷ lệ trẻ SDD nhưng tỷ lệ trẻ bị thiếu cân trung bình ở các nước phát triển chỉ giảm 5% trong suốt 15 năm qua. Hiện nay có 27% trẻ em ở các nước đang phát triển bị thiếu cân, tức vào khoảng 146 triệu em [53].
Kết quả điều tra của Viện Dinh dưỡng Việt Nam năm 2001 trên toàn quốc ở 93189 trẻ em dưới 5 tuổi cho thấy số trẻ SDD thể thiếu cân là 31,9%, thể thấp còi là 34,8% và thể gầy còm là 9,0%. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, hoạt động phòng chống SDD của trẻ em Việt Nam đã được triển khai rộng rãi trên phạm vi toàn quốc cùng với đó đã có nhiều dự án khác cùng tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào công tác phòng chống SDD trẻ em như PAM- 2651; 3844 vào thập kỷ 80 và 90, chương trình VAC, dự án 135, chương trình phòng chống thiếu iode và bệnh bướu cổ, chương trình vitamin A, uống viên sắt, tiêm chủng mở rộng và bước đầu thu
được những kết quả đáng khích lê. Tỷ lê SDD trẻ em có xu hướng giảm đi rõ rêt qua các năm 1985-2007 [34], [62].
Năm Thể nhẹ cân Thể thấp còi Thể gầy còm
Tỷ lệ(%) Tỷ lệ(%) Tỷ lệ(%)
1985 51,5% 59,7 7,0
1990 44,9 56,5 9,3
1995 40,7 46,9 11,6
2000 33,8 36,5 8,6
2005 25,2 29,6 6,9
2007 21,2 33,9 7,1
2008 19,9 32,6
Ngày 7/10/2009, tại Hà Nôi, Bô Y tế đã tổ chức “Hôi thảo phổ biến kế hoạch vi sự sống còn trẻ em”, có sự tham gia của các Vụ, Cục, Viên, Bênh viên, các Trường đại học Y, đại diên các Bô, Ngành, Tổ chức quốc tế, Liên hợp quốc và các đại biểu đến từ 32 tỉnh, thành phố phía bắc… Tại Hôi thảo, Thứ trưởng Trần Chí Liêm cho biết, tỷ lê tử vong trẻ em dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi đã giảm từ 35% – 42% năm 2001 xuống còn 16% -26% vào năm 2006. So với thập kỷ trước, tỷ lê này đã giảm xuống còn môt nửa và ở mức tương đương các nước có thu nhập cao gấp nước ta 3-4 lần trong khu vực. Cùng với giảm tỷ lê tử vong trẻ em, tỷ lê trẻ em suy dinh dưỡng ở nước ta cũng đã giảm xuống còn 19,9% (năm 2008). Điều đáng phấn khởi là tỷ lê suy dinh dưỡng trẻ em cũng đã giảm ở cả những khu vực có nhiều khó khăn như vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên… [2]. Tuy nhiên, tỷ lê trẻ SDD ở Viêt Nam vẫn còn khá cao so với khu vực (Trung Quốc: 8%, Malayxia: 11%, Mông Cổ: 13%) và có môt sự cách biêt lớn về số trẻ em bị SDD ở các vùng, miền: Tỷ lê trẻ SDD ở Đắc Nông là 35%, nhiều hơn gấp 3 lần ở thành phố Hổ Chí Minh (10%) [53].
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến SDD của trẻ dưới 5 tuổi nhưng nguyên nhân cơ bản vẫn là sự nghèo khổ và thiếu kiến thức [33]. Trẻ dưới 5 tuổi là thời kỳ phát triển đặc biệt với các nhu cầu dinh dưỡng và đặc điểm cơ thể khác hẳn với trẻ lớn. Đây là lứa tuổi phát triển nhanh đổng thời tình trạng dinh dưỡng của trẻ phụ thuộc rất lớn vào sự nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ [4]. Tình trạng SDD ở lứa tuổi này để lại hâu quả quan trọng đến sự phát triển thể chất và tinh thần của trẻ. Do đó, tỷ lệ SDD trẻ dưới 5 tuổi hiện nay được coi là một trong những chỉ tiêu quan trọng bâc nhất phản ánh về mặt chất lượng cuộc sống xã hội, nhằm đánh giá tiềm năng phát triển của các nước nghèo cũng như các quốc gia đang phát triển [30].
Campuchia là một đất nước đã trải qua nhiều năm chiến tranh chống giặc ngoại xâm, sự mất ổn định làm cho đất nước lâm vào khủng hoảng chính trị suốt 2 thâp kỷ (1970-1980 của thế kỷ 20) đã phá đổ cơ sở vât chất to lớn trước đây của Campuchia, các ngành công – nông nghiệp, dịch vụ hầu hết không hoạt động. Hội nghị Pari ngày 28/10/1991 đánh dấu bước chuyển biến mới của đất nước Campuchia. Từ ngày 23/05/1993 đến ngày 28/05/1993, Campuchia đã tổ chức tổng tuyển cử dưới sự tổ chức giám sát của liên hợp Quốc ở Campuchia [35], [102]. Sau đó chính phủ Hoàng Gia đã được thành lâp, với mục tiêu phát triển đất nước là xây dựng nền kinh tế thị trường tự đo và ổn định đất nước lâu dài. Chăm sóc sức khoẻ cho người dân, là mục tiêu quan trọng của ngành Y tế.
Năm 1993, Bộ Y tế Campuchia đã đề ra hai mục tiêu chính là xây dựng lại cơ sở hạ tầng kể cả nguổn nhân lực và tài chính. Đến năm 1995-1996, Bộ
Y tế đã đổi mới theo bước đi “Kế hoạch quản lý Y tế Quốc gia” đảm bảo tất cả người dân được chăm sóc sức khoẻ, đặc biệt người dân ở vùng sâu vùng xa [35], [37], [113]. Nhiều chương trình được Bộ Y tế quan tâm, trong đó có chương trình tiêm chủng mở rộng phòng 6 loại bệnh cho trẻ dưới 1 tuổi, chương trình phòng chống bệnh lao, sốt rét và AIDS cho cộng đổng [113]. Ý tưởng của chương trình cải thiên đầu tư dinh dưỡng ở Campuchia năm 1999¬2008 đến nay là kế hoạch đầu tư dinh dưỡng Campuchia năm 2003-2007 là bước đi rất quan trọng và cố gắng của Chính phủ trong việc phòng chống nghèo đói, vấn đề SDD trẻ em dưới 5 tuổi [105], [116]. Theo báo cáo của Bô
Y tế Campuchia 1998-2000 cho thấy: tỷ lệ SDD cân nặng/tuổi là 52,4%(1996), 50,3%(2000), chiều cao/tuổi là 56,4% (1996), 49,8% (2000), và cân nặng/chiều cao 13% (1996) và 16% (2000). Như vây tỷ lệ SDD trẻ em ở Campuchia là cao nhất so với các nước trong khu vực như Lào 40%, Philippines 33%, Miến Điện 19%, Trung Quốc 16%, Thái Lan 15% và Việt Nam 26,6% (2004) [56], [113], [124], [126], [127].
Chính phủ đã hiểu rõ vấn đề thiếu dinh dưỡng ở Campuchia hiện nay do 4 vấn đề cơ bản là SDD protein-năng lượng, thiếu Vitamin A, thiếu máu do thiếu sắt và thiếu Iode, ảnh hưởng trầm trọng đến sức khoẻ của người dân cũng như sự phát triển thể lực, trí tuệ và làm giảm đi nguồn nhân lực của đất nước. Chính vấn đề trên kế hoạch hành đông Quốc gia dinh dưỡng Campuchia 2003-2007 đã được xây dựng tạo điều kiện để các tổ chức Quốc tế dễ dàng tìm các giải pháp can thiệp thích hợp đối với tình hình thiếu dinh dưỡng hiện nay [105], [107], [108]. Nghiên cứu lại xã Kôk Rô Ka quân Dong Kor ngoại thành Phnom Penh 1999-2000 của Rin Keo đã được đưa ra dẫn liệu ban đầu về tình trạng dinh dưỡng và môt số vấn đề còn tồn tại: Tỷ lệ SDD trẻ em còn khá cao: 47,0% (cân nặng/tuổi), thực hiện cho trẻ ăn bổ sung không đúng, ăn muôn trên 12 tháng là 93,5%, số bữa ăn của trẻ rất ít có đến 63,4%, trẻ chỉ ăn 1-2 bữa/ngày số trẻ ăn 4 bữa/ngày chỉ chiếm 4,2%, kiến thức thực hành nuôi dưỡng trẻ của các bà mẹ còn có nhiều hạn chế, trẻ bú lần đầu sau khi sinh rất muôn, trên 12 giờ chiếm 68,6% [35]. Do vây việc tìm kiếm các giải pháp can thiệp nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em ở Campuchia đang là môt vấn đề rất được quan tâm.
Bắc Kạn là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía đông giáp tỉnh Lạng Sơn, phía nam giáp tỉnh Thái Nguyên và phía tây giáp tỉnh Tuyên Quang. Địa phương này có những đặc điểm về tự nhiên, kinh tế-xã hội còn nhiều khó khăn và khá tương đổng với Campuchia. Tỷ lệ SDD ở đây vẫn còn ở mức rất cao (thể thiếu cân là 35,6%, thể thấp còi là 39,2%) [94].
Là một trong 8 huyện của tỉnh Bắc Kạn, Ba Bể có diện tích 67.809 ha, dân số 47.910 người với 5 dân tộc (Tày 58%; Dao 21%; Mông 13%; Nùng 7% và Kinh 1%). Về tiềm năng, đây là huyện có khả năng phát triển du lịch, dịch vụ; nhưng đến thời điểm này nguổn thu nhập chính của người dân vẫn là nông nghiệp, đời sống của nhân dân nằm trong hoàn cảnh chung của toàn tỉnh. Việc chăm sóc sức khoẻ, dinh dưỡng- đặc biệt là với trẻ dưới 5 tuổi vẫn còn nhiều vấn đề chưa đáp ứng được.
Để có cơ sở cho việc áp dụng những giải pháp can thiệp phù hợp nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em tại địa phương này và đổng thời cũng với mong muốn trong tương lai, có thể áp dụng các kết quả đạt được trong nghiên cứu cho Campuchia, nên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
” Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi và thử nghiệm một số giải pháp can thiệp tại cộng đồng ở tỉnh Bắc Kạn” với 3 mục tiêu sau đây:
1. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi ở huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn.
2. Mô tả một số yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em ở địa điểm nghiên cứu trên.
3. Đánh giá hiệu quả giải pháp can thiệp “Giáo dục dinh dưỡng ở cộng đổng” tới kiến thức, thực hành nuôi dưỡng và tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi
MỤC LỤC
Đặt vấn đề 1
Chương 1: Tổng quan 7
1.1. Suy dinh dưỡng 7
1.2. Nguyên nhân SDD ở trẻ em 7
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng và hâu quả của SDD 16
1.3.1. Anh hưởng của các vấn đề cung cấp thức ăn cho trẻ chưa hợp lý.. 16
1.3.2. Anh hưởng và hâu quả của thiếu máu thiếu sắt 19
1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng do người mẹ thiếu kiến thức 20
1.3.4. Các yếu tố do nhiễm trùng và ký sinh trùng 21
1.3.5. Một số yếu tố ảnh hưởng khác: 22
1.4. Tình trạng SDD của trẻ em trên thế giới, Việt Nam và Campuchia 23
1.4.1. Trên thế giới 23
1.4.2. Việt Nam 25
1.4.3. Campuchia 27
1.5. Một số cách phân loại suy dinh dưỡng tại cộng đổng 33
1.5.1. Cách phân loại dựa vào phần trăm so với trung vị 34
1.5.2. Cách phân loại dựa độ lệch chuẩn với quần thể tham chiếu 36
1.6. Các giải pháp phòng chống suy dinh dưỡng 38
1.6.1. Mục tiêu phòng chống suy dinh dưỡng 38
1.6.2. Giải pháp 40
Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 51
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 51
2.2. Thiết kế nghiên cứu 51
2.2.1. Bước 1 51
2.2.2. Bước 2 52
Chương 3: Kết quả nghiên cứu 59
3.1. Kết quả nghiên cứu đánh giá tình trạng dinh dưỡng ( TTDD ) và các
yếu tố ảnh hưởng: 59
3.1.1. Một số thông tin chung: 59
3.1.2. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi: 61
3.1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến TTDD trẻ < 5 tuổi: 63
3.2. Kết quả nghiên cứu hiệu quả của giải pháp can thiệp truyền thông giáo
dục dinh dưỡng: 66
3.2.1. Thay đối kiến thức dinh dưỡng của bà mẹ 66
3.2.2. Thay đối thực hành dinh dưỡng của bà mẹ 69
3.2.3. Thay đổi tình trạng dinh dưỡng của trẻ: 71
3.2.4. Số lần tiêu thụ thực phẩm trong ngày và tình trạng bệnh tật của trẻ
dưới 24 tháng tuổi thuộc nhóm can thiệp 85
Chương 4: Bàn luận 88
4.1. Điêu kiện kinh tế, văn hoá xã hội: 88
4.2. Tình trạng dinh dưỡng và các yếu tố ảnh hưởng: 90
4.2.1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi: 90
4.2.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến TTDD trẻ <5 tuổi: 94
4.3. Hiệu quả của giải pháp can thiệp truyền thông giáo dục dinh dưỡng: . 97
4.3.1. Thay đối kiến thức dinh dưỡng của bà mẹ 97
4.3.2. Thay đổi thực hành dinh dưỡng của bà mẹ 98
4.3.3. Thay đổi tình trạng dinh dưỡng của trẻ: 100
4.3.4. Thay đổi số lần tiêu thụ thực phẩm và tình trạng bệnh tật của trẻ
dưới 24 tháng tuổi thuộc nhóm can thiệp 104
Kết luận 108
Kiến nghị 110
Tài liêu tham khảo Phụ lục
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích