Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan ở trẻ dưới 5 tuổi tại hai xã Hùng Mỹ, Xuân Quang, huyện Chiêm Hóa – Tuyên Quang

Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan ở trẻ dưới 5 tuổi tại hai xã Hùng Mỹ, Xuân Quang, huyện Chiêm Hóa – Tuyên Quang

Theo báo cáo của Liên hiệp quốc năm 2008 về việc thực hiện Các mục tiêu thiên niên kỷ và báo cáo của UNICEF năm 2006 về tiến triển tình hình dinh dưỡng trẻ em cho thấy: Trong khoảng 16 năm (1990 – 2006) tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ cân toàn thế giới giảm được 7% (từ 33% xuống còn 26%); nhưng trong khoảng 146 triệu trẻ hiện tại đang bị SDD thì tới 106 triệu (73%) sống ở 10 nước đang phát triển, trong đó Việt Nam đóng góp khoảng 2 triệu trẻ (1,5%) [7, 8, 9]. Theo kết quả điều tra của viện Dinh Dưỡng năm 2008 tỷ lệ SDD ở trẻ dưới 5 tuổi theo chỉ số cân nặng/ tuổi  [6]:  19,9%;  chiều  cao/tuổi:  32,6%  (theo quần thể tham chiếu WHO 2005) nhưng ở một số khu vực như Tây Nguyên, Miền Trung, Miền núi phía Bắc tỷ lệ SDD, đặc biệt là SDD thể thấp còi, vẫn còn ở mức cao và rất cao so với ngưỡng của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).

Có nhiều yếu tố liên quan đến SDD như: cân nặng sơ sinh, tình trạng sức khoẻ bệnh tật của trẻ, kiến thức và thực hành nuôi con của các bà mẹ…Tuy vậy, ở mỗi địa phương, mỗi vùng lại có những yếu tố đặc thù tác động đến tình trạng dinh dưỡng (TTDD) mà người cán bộ y tế cần phải nghiên cứu, phân tích để có những giải pháp phòng chống SDD phù hợp.

Huyện Chiêm Hoá, Tuyên Quang là địa phương có nhiều dân tộc ít người sinh sống, tập quán nuôi trẻ còn nhiều điều chưa thay đổi, nhiều năm gần đây chưa có nghiên cứu dinh dưỡng  nào  được  triển  khai.  Nghiên  cứu  này được tiến hành nhằm mục tiêu:

1. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi ở 2 xã Hùng Mỹ và Xuân Quang – huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang.

2. Đánh giá một số yếu tố liên quan  đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi tại địa phương trên.

II. ĐỐI  TƯỢNG  VÀ  PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng nghiên cứu

Trẻ em dưới 5 tuổi và bà mẹ đang nuôi trẻ dưới 5 tuổi.

2. Phương pháp, thời gian nghiên cứu

Sử dụng thiết kế nghiên cứu cắt ngang tại thời điểm tháng 8 năm 2009.

Cỡ mẫu, cách chọn mẫu

Chọn chủ đích huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Hai xã Hùng Mỹ và Xuân Quang được chọn ngẫu nhiên từ 29 xã của huyện. Toàn bộ trẻ dưới 5 tuổi và bà mẹ đang nuôi con dưới 5 tuổi của 2 xã này được đưa vào nghiên cứu với tổng số là 565 cặp mẹ con.

Phương pháp thu thập số liệu

Cân nặng của trẻ được thu thập bằng cân Seca có độ chính xác 0,1kg; chiều cao được đo bằng thước Microtoise, chiều dài được đo bằng thước  đo  chiều  dài  nằm  của  UNICEF  có  độ chính xác là 0,1cm; tuổi, giới được lấy từ phiếu tiêm chủng của trẻ. Trình độ học vấn của bố mẹ, kinh tế gia đình theo phân loại của địa phương, kiến thức và thực hành của bà mẹ về thời gian nghỉ sau sinh, về tăng cân khi có thai được thu thập bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn và đã được chuẩn hóa bằng điều tra thử. Điều tra viên được tập huấn kỹ thuật cân đo và phỏng vấn trước khi tham gia nghiên cứu. Giám sát viên và kỹ thuật Kappa được sử dụng để khống chế sai số.

Xử lý số liệu

TTDD của trẻ được xử lý bằng phần mềm Anthro2005 với quần thể tham chiếu WHO2005 để xác định các thể SDD nhẹ cân (CN/T thấp) thể thấp còi (CC/T thấp) và thể gầy còm (CN/ CC thấp) sau đó toàn bộ số liệu được xử lý trên STATA 8.0. Áp dụng phân tích mô tả để tính tỷ lệ %; phân tích đa biến hồi quy logistic được sử dụng để tìm các yếu tố ảnh hưởng đến TTDD CN/T và CC/T. Các yếu tố được đưa vào mô hình hồi quy bao gồm: học vấn của bố, học vấn của mẹ, kinh tế gia đình, thời gian bà mẹ được nghỉ sau sinh, kiến thức về số cân tăng của bà mẹ khi có thai (đã kiểm soát yếu tố tuổi, giới của trẻ).

Tỷ lệ SDD trẻ dưới 5 tuổi ở khu vực miền núi phía Bắc trong những năm gần đây vẫn còn ở mức cao và rất cao với nhiều yếu tố liên quan. Mục tiêu: (1) Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi ở 2 xã Hùng Mỹ, Xuân Quang (Chiêm Hóa, Tuyên Quang). (2) Đánh giá một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 565 cặp mẹ con được điều tra cắt ngang mô tả. Kết quả và kết luận: tỷ lệ SDD nhẹ cân là 23,5%; thấp còi 32,9%; gầy còm 9,7% tương tự như tỷ lệ chung của tỉnh năm 2008 và ở mức độ cao theo ngưỡng phân loại của WHO1995. Trình độ học vấn của bố mẹ, kinh tế gia đình, thời gian bà mẹ được nghỉ sau khi sinh là các yếu tố liên quan tới TTDD có ý nghĩa thống kê. Đặc biệt, kiến thức của bà mẹ biết cần phải tăng thêm được 9 – 12kg trong thời gian 9 tháng mang thai có liên quan rất chặt chẽ với cả 2 thể SDD nhẹ cân và thấp còi (p < 0,001).
 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment