Tình trạng hở van hai lá sau nong bằng bóng inoue trên bệnh nhân hẹp van hai lá khít
Mục tiêu:tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng hở van hai lá (HoHL) ngay và sau 3 tháng nong van hai lá (NVHL) bằng bóng Inoue để điều trị hẹp hai lá (HHL) khít. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:43 bệ nh nhân (BN) HHL khít được NVHL bằng bóngInoue tại viện Tim mạch – Bệnh việ n Bạch Maitừ tháng 01/2007 đến 10/2007, thời gian theo dõi trung bình sau NVHL là ba tháng. Kết quả và kết luận:độ dày lá trước VHL, độ dày lá sau VHL và độ vôi hoá mép van theo thang điểm Padial có ảnh hưở ng đến biến chứ ng HoHL nặng sau nong. Điểm Padial =10 rất có ý nghĩa dự báo HoHL nặng sau NVHL.Trong thang điểm Wilkins chỉ có mức độ vôi hoá van là ảnh hưởngđế n biế n chứng HoHL sau nong van p < 0,05. Hở van độ ng
mạch chủ (HoC) và/hoặc HoHL từ nhẹ – vừa kèm theo trên bệ nh nhân có điểm Wilkins < 8 và điểm Padial < 10 không có ảnh hưởng đế n HoHL nặng sau NVHL.
Năm 1984 Kanji Inoue, lần đầu tiên giới thiệuphương pháp NVHL bằng bóng cho BN HHL khít. Đây là phương pháp có nhiều ưu điểm vượt trội [1; 4], áp dụng được cho các BN suy tim nặng, thai phụ, trẻ em [5]… kết quả nong van so sánh được với phương pháp mổ tách van tim mở, mổ tách van tim kín [8]. Một trong những biến chứng hay gặp sau NVHL là HoHL. HoHL nặng có thể phải can thiệp ngoại khoa cấp cứu, lâu dài BN có thểphải phẫu thuật thay van. Thực tế lâm sàng, HoHL có thể xuất hiện ngay sau NVHL nhưng cũng có thểxuất hiện sau NVHL một thời gian. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu: Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng HoHL sau NVHL 3 tháng
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích