Tình trạng hở van hai lá sau nong bằng bóng Inoue trên bệnh nhân hẹp van hai lá khít
Năm 1984 Kanji Inoue, lần đầu tiên giới thiệu phương pháp NVHL bằng bóng cho BN HHL khít. Đây là phương pháp có nhiều ưu điểm vượt trội [1; 4], áp dụng được cho các BN suy tim nặng, thai phụ, trẻ em [5]… kết quả nong van so sánh được với phương pháp mổ tách van tim mở, mổ tách van tim kín [8]. Một trong những biến chứng hay gặp sau NVHL là HoHL. HoHL nặng có thể phải can thiệp ngoại khoa cấp cứu, lâu dài BN có thể phải phẫu thuật thay van. Thực tế lâm sàng, HoHL có thể xuất hiện ngay sau NVHL nhưng cũng có thể xuất hiện sau NVHL một thời gian. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu:
Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng HoHL sau NVHL 3 tháng
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
43 bệnh nhân (BN) HHL khít được NVHL bằng bóng Inoue tại viện Tim mạch – Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 01/2007 đến 10/2007, thời gian theo dõi trung bình sau NVHL là 03 tháng.
2. Phương pháp nghiên cứu
Tất cả các BN đều phải được khám lâm sàng tỉ mỉ, làm các xét nghiệm cơ bản và đặc biệt là các thông số mang tính chất lượng hoá trên siêu âm (SÂ) Doppler tim (cùng một bác sĩ chuyên khoa).
BN HHL khít (diện tích lỗ van trên SÂ < 1,5cm2) và có triệu chứng cơ năng trên lâm sàng (NYHA ≥ 2); hình thái van theo thang điểm SÂ (Echo score) của Wilkins và thang điểm HoHL của Padial tốt cho NVHL. Thông thường chúng tôi chỉ định NVHL cho những BN có tổng số điểm Wil- kins < 8 và điểm Padial < 10. Một số tình huống nhất định, chúng tôi vẫn NVHL cho một số BN có điểm Wilkins ≥ 8 và/hoặc điểm Padial ≥ 10 sau khi cân nhắc kỹ lợi ích và nguy cơ.
BN không có huyết khối trong nhĩ trái được khẳng định trên SÂ qua thành ngực (SÂ qua thực quản ở bệnh nhân rung nhĩ hoặc bệnh nhân có nguy cơ huyết khối cao). BN có thể có HoHL và/hoặc hở/hẹp van động mạch chủ kèm theo chỉ ở mức từ nhẹ đến vừa (≥ 2/4) và chưa ảnh hưởng đến chức năng thất trái.
Đánh giá mức độ HoHL, chúng tôi dựa vào phương pháp đánh giá của Helmcke [6], Spain [10] và đặc biệt là Miyatake [7]. BN được hội chẩn, có chỉ định NVHL bằng bóng Inoue và được tiến hành NVHL bằng bóng Inoue tại phòng Thông tim – viện Tim mạch Việt Nam. BN được khám lại lâm sàng và SÂ tim ngay sau và 3 tháng sau nong van.
Để tìm các yếu tố liên quan đến HoHL nặng ngay sau NVHL, chúng tôi chọn những BN không bị HoHL nặng hoặc không tăng hơn 2 độ so với trước NVHL vào nhóm Ia và những BN bị HoHL nặng sau NVHL (≥ 3/4) hoặc tăng lên ít nhất 2 độ sau NVHL vào nhóm Ib.
Để tìm các yếu tố liên quan đến HoHL sau NVHL 3 tháng, chúng tôi chọn những BN không bị HoHL nặng hoặc không tăng hơn 2 độ so với trước NVHL vào nhóm IIa và những BN bị HoHL nặng sau NVHL (≥ 3/4) hoặc tăng lên ít nhất 2 độ sau NVHL vào nhóm IIb.
Để đánh giá vai trò tổn thương HoHL, HoC đi kèm đối với tình trạng HoHL sau NVHL, chúng tôi chia BN trong nghiên cứu của mình thành các nhóm: Nhóm A: chỉ gồm những bệnh nhân HHL khít đơn thuần. Nhóm B: Gồm những bệnh nhân HHL khít và HoC kèm theo từ mức độ nhẹ – vừa. Nhóm C: gồm những bệnh nhân HHL khít và HoHL kèm theo từ mức độ nhẹ – vừa. Nhóm D: Gồm những bệnh nhân HHL khít kèm theo có cả HoHL và HoC từ nhẹ – vừa.
3. Kỹ thuật NVHL bằng bóng Inoue
Dụng cụ đặc biệt dùng để NVHL được đưa từ đường tĩnh mạch đùi phải, lên tận tĩnh mạch chủ trên, chỗ đổ vào nhĩ phải, đến vị trí lựa chọn rồi tiến hành chọc vách liên nhĩ để sang nhĩ trái. Sau đó đưa bóng (đã được làm căng ra) sang nhĩ trái.
Dùng dây lái đặc biệt hình chữ J để lái bóng (đã được xác định kích cỡ tương thích với bệnh nhân) qua lỗ VHL xuống tận thất trái. Sau đó đầu xa của bóng được bơm cho nở đôi chút và lại đến khi mắc vào VHL thì bơm căng nhanh, bóng sẽ nở tiếp đầu gần và toàn bộ phần eo, sẽ tách được 2 mép van. Đường kính bóng nong được tăng dần cho đến khi đạt kết quả tốt nhất.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích