Tình trạng suy dinh dưỡng và thiếu máu của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ở các tỉnh miền núi phía Bắc

Tình trạng suy dinh dưỡng và thiếu máu của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ở các tỉnh miền núi phía Bắc

Suy dinh dưỡng (SDD), thiếu máu và thiếu vi chất dinh dưỡng là những vấn đề có ý nghĩa sức khoẻ cộng đồng ở Việt Nam. Suy dinh dưỡng thường đi kèm với thiếu máu tại những vùng có điều kiện sống khó khăn. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm mô tả tình trạng dinh dưỡng, thiếu máu của phụ nữ tuổi sinh đẻ (PNTSĐ) tại 5 xã nông thôn nghèo ở tỉnh Hòa Bình và Lai Châu (các xã giám sát dinh dưỡng). Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn (CED) (BMI<18.5) ở PNTSĐ từ 20-35 tuổi là 25,0%. Tỷ lệ thiếu máu ở PNTSĐ (35.9%) được phân loại ở mức độ vừa (20-39,9%) về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng (YNSKCĐ). Thiếu năng lượng trường diễn và thiếu máu là vấn đề có YNSKCĐ quan trọng ở PNTSĐ tại các xã nông thôn nghèo. Trong những năm tới, cần phải triển khai các giải pháp có hiệu quả trong việc dựphòng và can thiệp để hạ thấp tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn, thiếu máu cho PNTSĐ ở cộng đồng.

Suy dinh dưỡng và thiéu máu vân đang đạ chất <chát tinh bê>’ và cl* béo’ dẫ” là »án đề sức khoè cộng đồng quan trọng ử đén SDD Protei” nâng lưựng), thiếu vi chát

các nước đang phát triền, đặc biệt ử các nữớc (vitamin và khoán9 chất) [ụ Tỳ cạc

Đông Nam châu Á. Ché đô ăn cùa ngưửi dân Wnh ký sinh trtn9 đườn3 và nhiêm khuản 

cao góp phần làm tăng tỷ lệ SDD và thiếu máu. Ở nước ta tình trạng thiếu máu vẫn là vấn đề chưa được giải quyết thỏa đáng. Cuộc điều tra về thiếu máu trên toàn quốc năm 2000 cho thấy tỷ lệ thiếu máu đã giảm đi đáng kể so với năm 1995 (ở phụ nữ có thai 34,1%, phụ nữ tuổi sinh đẻ (PNTSĐ) 32,2%, ở trẻ em dưới 5 tuổi 24,3% và ở nam giới là 9,4%), song thiếu máu vẫn là vấn đề phổ biến, đang tác động tới sức khỏe và nền kinh tế xã hội [2],

Trong thập kỷ qua, nhờ có sự phát triển của kinh tế xã hội và thành công của các chương trình chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng của nhân dân đặc biệt là tình trạng dinh dưỡng của bà mẹ và trẻ em. Mặc dù vậy, SDD vẫn là một thách thức lớn đối với sức khỏe và sự phát triển. Suy dinh dưỡng để lại di chứng từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ người mẹ sang đứa trẻ sơ sinh. Tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe của bà mẹ đóng vai trò quan trọng tới tình trạng thấp còi ở Việt Nam.

Để xây dựng mô hình phòng chống suy dinh dưỡng dựa vào sự tham gia của cộng đồng nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng và vi chất dinh dưỡng của phụ nữ và trẻ em thông qua các hoạt động lồng ghép và phối hợp liên ngành tại các xã điểm của các tỉnh (xã giám sát dinh dưỡng). Nghiên cứu này nhằm mục tiêu đánh giá tình trạng dinh dưỡng, thiếu máu của PNTSĐ để có cơ sở xây dựng giải pháp phòng chống SDD và thiếu máu ở cộng đồng cho các giai đoạn tiếp theo.

II. ĐÓI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

1. Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang, mô tả có phân tích

2. Địa điểm

5 xã nông thôn nghèo của tỉnh Hoà Bình và Lai Châu.

3. Đối tượng

Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (19-34 tuổi, không có thai, không cho con bú, không có con dưới 2 tuổi).

4. Cỡ mẫu

Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho điều tra tỷ lệ: n = Z2(1-a/2)*p*(1-p)/d2

Trong đó: n: số đối tượng cần điều tra; z=1,96 với a = 0,05; Kết quả của các nghiên cứu trước trên cộng đồng,tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn (CED) ở phụ nữ là 22% [3]; Tỷ lệ thiếu máu phụ nữ TĐTSĐ: 26,7% [4]; d: sai số cho phép chọn ngưỡng 5%

Cỡ mẫu cần để điều tra tỷ lệ CED: 830 người, điều tra tỷ lệ thiếu máu ở PNĐTSĐ là 315 người.

5. Phương pháp thu thập số liệu

Thu thập số liệu nhân trắc: Sử dụng cân điện tử SECA có độ chính xác 0,1 kg để xác định cân nặng. Sử dụng thước gỗ 3 mảnh của UNICEF có đế cố định (độ chính xác 1mm) để đo chiều cao đứng cho phụ nữ. Tuổi của các đối tượng đượctính theo năm (WHO, 1995).

Lấy mẫu xét nghiệm hemoglobin (Hb): Lấy máu đầu ngón tay bằng kim vô trùng. Xác định nồng độ Hb trong máu bằng máy đo quang kế HemoCue tại thực địa.

6. Phương pháp đánh giá nhận định

Đánh giá tình trạng dinh dưỡng : Theo khuyến nghị của WHO, đối với người trưởng thành 20 – 34 tuổi, đánh giá tình trạng DD dựa vào BMI sử dụng cho người châu Á trưởng thành (IDI & WPRO, 2000).

Đánh giá tình trạng thiếu máu : Đánh giá tình trạng thiếu máu trên cộng đồng dựa vào phân loại của TCYTTG, 2001. Ngưỡng xác định thiếu máu: Phụ nữ: Hb < 120 g/l (WHO, 2001).

 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment