Tổn thương mô bệnh học màng hoạt dịch khớp gối viêm khớp dạng thấp

Tổn thương mô bệnh học màng hoạt dịch khớp gối viêm khớp dạng thấp

Viêm khớp dạng thấp là bệnh tự miễn dịch có tổn thương cơ bản là viêm mạn tính màng hoạt dịch khớp. Nghiên cứu hình ảnh tổn thương màng hoạt dịch khớp có thể giúp cho quá trình chẩn đoán, theo dõi và điều trị bệnh. Mục tiêu: Mô tả các tổn thương mô bệnh học màng hoạt dịch có giá trị chẩn đoán bệnh Viêm khớp dạng thấp. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu 30 bệnh nhân Viêm khớp dạng thấp được chẩn đoán xác đinh theo tiêu chuẩn chẩn đoán ACR 1987, nội soi khớp gối và sinh thiết màng hoạt dịch khớp, phân tích các đặc điểm mô bệnh học màng hoạt dịch. Kết quả: Thâm nhiễm tế bào viêm lan tỏa (96,7%), tăng sinh mạch máu tân tạo (96,7%), hoại tử dạng tơ huyết (90%), tăng sinh hình lông màng hoạt dịch (80%), quá sản lớp tế bào phủ hình lông (70%), thâm nhiễm tế bào viêm thành nang (66,7%), tăng sinh xơ (63%). Kết luận: Có 2 đặc điểm về mô bệnh học có thể chẩn đoán xác định bệnh viêm khớp dạng thấp trong thể khó chẩn đoán (đặc biệt thể một khớp gối) là quá sản lớp tế bào phủ hình lông (70%) và thâm nhiễm tế bào viêm thành nang (66,7%).

Viêm khớp dạng thấp (VKDT) là một bệnh tự miễn có biểu hiện viêm mạn tính màng hoạt dịch, trong đó tỷ lệ tổn thương khớp gối rất cao (90% trong giai đoạn toàn phát). Trường hợp điển hình, bệnh được chẩn đoán dễ dàng theo tiêu chuẩn của Hội thấp khớp học Mỹ (ACR) 1987. Tuy nhiên, trong thực tế lâm sàng, có thể gặp những trường hợp VKDT không điển hình (ví dụ thể một khớp gối), không thể áp dụng tiêu chuẩn trên để chẩn đoán. Trong những trường hợp đó, việc phân tích mô bệnh học màng hoạt dịch kết hợp với các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng khác để chẩn đoán xác định thể bệnh này là rất cần thiết [5]. Trên thế giới đã có khá nhiều nghiên cứu về tổn thương mô bệnh học màng hoạt dịch trong bệnh VKDT. Những nghiên cứu này đã góp phần làm sáng tỏ cơ chế bệnh sinh của bệnh cũng như mối liên quan của tổn thương mô bệnh học với các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, với quá trình chẩn đoán và điều trị bệnh. Đặc biệt, nhờ sự phát triển của kỹ thuật nội soi khớp, người ta có thể quan sát trực tiếp được hình ảnh màng hoạt dịch, sinh thiết lấy bệnh phẩm đúng vị trí tổn thương giúp cho ngành Giải phẫu bệnh nghiên cứu rõ đặc điểm vi thể màng hoạt dịch. Nội soi khớp còn được ứng dụng trong điều trị nhiều bệnh khớp.
Tại Việt Nam, nghiên cứu có hệ thống về đặc điểm hình ảnh tổn thương mô bệnh học màng hoạt dịch khớp gối trong VKDT còn chưa nhiều. Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm mục tiêu:
Mô tả các tổn thương mô bệnh học màng hoạt dịch khớp gối có giá trị chẩn đoán bệnh viêm khớp dạng thấp.
II.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.    Đối tượng
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân nghiên cứu
Gồm 30 bệnh nhân mắc bệnh VKDT, thời gian từ 01/08/2003-31/11/2004, chấp nhận tham gia nghiên cứu, có đủ cả ba điều kiện sau:
–    Được chẩn đoán VKDT theo tiêu chuẩn của Hội thấp khớp học Mỹ (ACR) 1987. Trân trọng cảm ơn GS.TS Nguyễn Vượng đã giúp đỡ thực hiện đề tài này.
–    Có tổn thương khớp gối: Sưng (tràn dịch khớp gối) và/ hoặc đau ít nhất một khớp gối.
–    Được xếp ở giai đoạn 2, 3 theo phân loại giai đoạn bệnh của Steinbrocker.
Tiêu chuẩn loại trừ:
–    Không đồng ý tham gia nghiên cứu.
–    Có chống chỉ định của nội soi khớp.
2.    Phương pháp
–    Nghiên cứu tiến cứu, cắt ngang, mô tả.
–    Tất cả 30 bệnh nhân đều được thăm khám lâm sàng, làm các xét nghiệm cận lâm sàng (yếu tố dạng thấp, chụp XQ bàn tay hai bên thẳng) để chẩn đoán xác định VKDT, phân loại giai đoạn bệnh theo tiêu chuẩn Steinbrocker.
–     Bệnh nhân được nội soi khớp gối bị sưng và/ hoặc đau (nếu cả hai khớp gối tổn thương thì chọn soi bên sưng/ hoặc đau rõ hơn. Kỹ thuật được thực hiện tại khoa Thăm dò chức năng bệnh viện Bạch Mai, gây tê tại chỗ bằng Xylocain, rửa khớp bằng NaCl 0,9%.
–     Sinh thiết 3 – 5 mảnh màng hoạt dịch khớp gối qua nội soi khớp. Xử lý mảnh sinh thiết, nhuộm tiêu bản theo phương pháp H.E (mỗi BN có 1 tiêu bản); phân tích mô bệnh học màng hoạt dịch tại khoa Giải phẫu bệnh, bệnh viện Bạch Mai.
–     Đọc tiêu bản trên kính hiển vi quang học có độ phóng đại 40 để đánh giá sự quá sản hình lông và độ phóng đại 400 để đánh giá tình trạng thâm nhiễm tế bào viêm ở màng hoạt dịch.
–    Phân tích mô bệnh học màng hoạt dịch khớp gối theo 7 thành phần tổn thương bằng phương pháp định tính (GS.TS. Nguyễn Vượng đọc tiêu bản).
3.    Nhận định và đánh giá kết quả mô bệnh học màng hoạt dịch
–    Quá sản lớp tế bào phủ hình lông màng hoạt dịch, 4 mức độ (Bình thường: 1 – 2 lớp; Quá sản ít: 3 – 4 lớp; Quá sản vừa: 5 – 6 lớp; Quá sản nhiều: > 7 lớp).
Tăng sinh mạch máu tân tạo, 4 mức độ (< 3 mạch máu trên một vi trường x 400 là bình thường). Khi số mạch máu tân tạo tăng thì tuỳ mức độ tăng mà đánh giá tăng sinh mạch máu ở 3 mức ít, vừa và nhiều (định tính).
Tình trạng phù nề, xung huyết mạch máu: Có/ không.
Xơ hoá: Có/ không tăng sinh xơ.
Thâm nhiễm tế bào viêm lan toả ở mô đệm, quanh mạch máu, 4 mức độ: Bình thường, thâm nhiễm ít, vừa, nhiều (định tính).
Tình trạng dòng tế bào viêm chiếm ưu thế (lympho, tương bào hay bạch cầu đa nhân trung tính), thâm nhiễm ưu thế đơn dòng hay hai, ba dòng phối hợp.
–    Thâm nhiễm TB viêm thành nang: Có/ không.
–    Đánh giá hoại tử dạng tơ huyết, 3 mức độ: Rõ (nhiều, dễ nhận thấy trên tiêu bản); Có hoại tử nhưng ít, không rõ; Không có hoại tử (định tính).
–    Đánh giá tăng sinh hình lông: Có/ không.
III.    KẾT QUẢ
1.    Đặc điểm chung về tuổi, giới
–    Tuổi trung bình: 53,4 ± 11,64. Tuổi thấp nhất là 28, tuổi cao nhất là 73.
–    Nữ: 21 BN (70%), nam: 9 BN (30%). Tỷ lệ nữ/ nam là 2,3/1.
2.    Đặc điểm mô bệnh học màng hoạt dịch khớp gối trong VKDT
2.1.    Đặc điểm quá sản lớp TB phủ hình lông
Tỷ lệ quá sản lớp bào phủ hình lông màng hoạt dịch: 70%, mức độ quá sản: 23,3% quá sản mức độ ít, 36,7% quá sản vừa, 10% quá sản nhiều.
2.2.    Đặc điểm tăng sinh mạch máu
Tỷ lệ tăng sinh mạch máu: 96,7% (29/30 BN).
Những thay đổi về mạch máu bao gồm vách mạch mỏng, lòng dãn rộng ứ máu, có đông máu nội mạch rải rác (biểu hiện một tổn thương viêm màng hoạt dịch hoạt động mạnh) hay ngược lại thành mạch dày, xơ hoá, lòng mạch máu hẹp, tắc (biểu hiện một viêm màng hoạt dịch mạn tính, diễn biến đã lâu) đều có gặp trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment