TỒNG KẾT HAI NAM PHẪU THUẬT NẮN CHỈNH VẸO CỘT SỒNG TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
Vẹo cột sống (VCS) là loại biến dạng khó chữa trong các bệnh lý cột sống. Trong nước ta hiện nay, VCS vẫn còn là một vãn đề lớn, đặc biệt là VSC nặng vì điều trị tốn kém, đòi hỏi kỹ thuật cao. Sự tiến bộ về điều trị bệnh lý này, bao gồm điều trị bảo tồn hay phẫu thuật chỉ phát triển trong hơn một thập kỷ nay tại Việt Nam(1215). VCS trẻ em có thể do các bệnh lý khác nhau gây ra như VCS bẩm sinh do tật nửa đố’t sống vẹo bẩm sinh là loại vẹo cột sống thường nghiêm trọng hơn và cần nhu cầu điều trị tích cực hơn so với các hình thức khác của vẹo cột sống, bệnh Von Recklinghausen, bệnh Marfan, bướu cột sống hay bướu tủy sống, bệnh tạo xương bãt toàn thoát vị đĩa đệm thắt lưng, lao cột sống, trượt đố’t sống… những loại nguyên nhân này cần phải nhận ra và điều trị trước sau đó mới xử trí VCS, nhưng có loại VCS vô căn thường gặp mà nguyên nhân không rõ, thường xảy ra ở trẻ lứa tuổi thanh thiếu niên, nhưng ngay cả tuổi còn rãt nhỏ cũng có thể xảy ra và hiện nay là vãn đề còn nhiều thách thức đối với các nhà chỉnh hình. VCS vô căn xuãt hiện càng sớm, càng có nguy cơ tiến triển có thể nói sự trầm trọng của vẹo vô căn tùy thuộc phần lớn vào tuổi xuãt hiện vẹo. Có ba thể lâm sàng VCS vô căn:
Thể ãu nhi: Xuãt hiện trước ba tuổi thường do bẩm sinh
Thể thiếu nhi: Xuãt hiện ở trẻ từ ba tuổi đến tuổi dậy thì. Sự phát triển VCS thường thình lình và trầm trọng.
Thể thiếu niên: Phát triển lúc dậy thì, thể này ít nguy hiểm vì tăng trưởng còn ít.
Từ lâu người ta đã tìm mọi cách, áp dụng mọi tiến bộ của y học vào điều trị VCS như: theo dõi nếu VCS < 200, tập vật lý trị liệu, điều trị bảo tồn bằng kéo nắn chỉnh vẹo và bó bột, áo nẹp thân nếu > 200 – 400 hay phẫu thuật nếu > 400. Việc điều trị phẫu thuật VCS có thể thực hiện bằng lối vào trước hay lối sau tùy theo chỉ đinh mổ cho từng trường họp vẹo. Trong trường hợp điều trị phẫu thuật, cùng với những tiến bộ về y học, các chuyển biến về chỉ đĩnh điều trị phẫu thuật, sử dụng dụng cụ và cấu hình dụng cụ đã thay đổi nhiều trong những năm gần đây. Bằng lối sau năm 1962, Harrington, người tiên phong trong phẫu thuật nắn chỉnh VCS bằng dụng cụ và hàn xương, nhưng chỉ chỉnh sửa vẹo trong không gian hai chiều, không sửa được di lệch xoay. Vào thập niên 1970, các dụng cụ lối trước được dùng để nắn chỉnh vẹo cột sống vùng thắt lưng và thắt lưng ngực. Vào đầu thập niên 1980, dụng cụ Harrington Luque nắn từng đoạn cột sống được sử dụng với chỉ thép để nắn chỉnh<9). Từ năm 1983, Jean Dubousset chủ trương nắn chỉnh vẹo 3 chiều chống xê dịch xoay bằng hệ thống móc vào bảng sống và chân cung. Sau năm 1990, nhiều tác giả trẻ ở Pháp bắt đầu áp dụng ốc chân cung cho vùng lưng thấp và thắt lưng, và móc cho vùng lưng cao. Từ năm 1995 đến những năm gần đây, các tác giả Suk S.I, Randal và Lenke, Liljenqvist… áp dụng cách đặt ốc chân cung cho toàn bộ các tầng xương sống cần nắn chỉnh(18). Trong những năm gần đây, Robert Gaines và cộng sự đề nghị cách đặt ốc chân cung hình phễu cho tất cả các vùng từ ngực cao đến thắt lungí15). Tại Việt Nam, vào thập niên 1970, Bác sĩ Hoàng Tiến Bảo và Vũ Tam Tỉnh đã tiến hành nắn chỉnh vẹo bằng khung sọ chậu. Năm 2002, Nguyễn Thế’ Luyến điều trị phẫu thuật VCS bằng dụng cụ Harrington Luque để nắn chỉnh vẹo(12). Từ sau năm 1997, Võ Văn Thành và cộng sự đã ứng dụng kỹ thuật
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất