TRONG ĐIềU TRị BảO TồN VòI Tử CUNG TRONG CHửA NGOàI Tử CUNG CHƯA Vỡ BằNG PHẫU THUậT NộI SOI

TRONG ĐIềU TRị BảO TồN VòI Tử CUNG TRONG CHửA NGOàI Tử CUNG CHƯA Vỡ BằNG PHẫU THUậT NộI SOI

TRONG ĐIềU TRị BảO TồN VòI Tử CUNG TRONG CHửA NGOàI Tử CUNG CHƯA Vỡ BằNG PHẫU THUậT NộI SOI HOặC METHOTRAXTE

Trần Chiến Thắng, Vương Tiến Hòa, Nguyễn Viết Tiến
Bệnh viện Phụ Sản trung Ương
Tóm tắt
Đánh giá kết quả điều trị bảo tồn vòi tử cung (VTC) và mối liên quan giữa nồng độ hCG, kích thước khối chửa trong chửa ngoài tử cung (CNTC) chưa vỡ bằng phẫu thuật nội soi (NSBT) hoặc Methotrexate (MTX).
Phương pháp: 160 bệnh nhân CNTC chưa vỡ, có nồng độ hCG ≤ 5000UI/L và kích thước khối thai ngoài qua siêu âm ≤3.5cm, được chia thành 2 nhóm điều trị, nhóm 1 sử dụng MTX tiêm bắp với liều 50mg, nhóm 2 điều trị bằng phẫu thuật NSBT. Sau điều trị, bệnh nhân được theo dõi
hàng tuần bằng định lượng hCG và siêu âm. Bệnh nhân được xuất viện khi nồng độ hCG giảm dưới 10UI/L
Kết quả: Nhóm điều trị MTX: tỷ lệ thành công là 93.75%, thất bại 6.25%. Nhóm PTNS: tỷ lệ thành công là 90%, thất bại chiếm 10%. Nồng độ hCG < 2000UI/L, tỷ lệ thành công ở nhóm MTX là 94.9%, ở nhóm NSBT (81.1%), các trường hợp nồng độ hCG ≥ 2000UI/L tỷ lệ tương ứng là 90.5% và 93.2%. Kích thước khối thai < 2cm và hCG < 2000UI/L, tỷ lệ thành công ở phương pháp MTX cao gấp 1.63 lần (0.1<OR = 1.63 <65 với CI 95%) so với phương
pháp PTNS. Các trường hợp có dịch cùng đồ < 10mm, tỷ lệ này là 4.04 lần (0.34 <OR = 4.04< 107 với CI 95%) Kết luận: Nồng độ hCG và dịch cùng đồ trước điều trị càng thấp, tỷ lệ thành công càng cao. Nồng độ hCG trước điều trị < 2000 UI/L, dịch cùng đồ < 10 mm nên điều trị MTX, nồng độ hCG trước điều trị ≥2000 UI/L, dịch cùng đồ ≥ 10 mm nên điều trị PTNS
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment