TRƯỜNG HỢP PHÌNH ĐỘNG MẠCH CHỦ NGỰC-BỤNG VÀ TRÊN ĐỘNG MẠCH THẬN ĐIỀU TRỊ TẠI BV BÌNH DÂN
TRƯỜNG HỢP PHÌNH ĐỘNG MẠCH CHỦ NGỰC-BỤNG VÀ TRÊN ĐỘNG MẠCH THẬN ĐIỀU TRỊ TẠI BV BÌNH DÂN
Văn Tần và cộng sự
TÓM TẮT :
Đặt vấn đề: Phình ĐMC ngực-bụng và trên ĐM thận không phải là hiếm. Ở BV Bình Dân, những TH nầy chiếm 22% các phình ĐMC nói chung. Đa số nhập viện đã có triệu chứng nặng hoặc BC vỡ, dọa vỡ và có chỉ định PT bắt buộc hoặc CC hoặc bán CC. Dù mổ CC hay CT, PT phình ĐMC ngực-bụng và trên ĐM thận rất phức tạp và có thể gây BC và TV cao. Mục tiêu NC: Tìm đặc điểm nhóm bệnh phình ĐMC ngực-bụng và trên ĐM thận về dịch tễ, về chỉ định, về điều trị và KQ để rút kinh nghiệm. Đối tượng và phương pháp: Chúng tôi hồi cứu tất cả các bệnh nhân bị phình ĐMC ngực-bụng và trên ĐM thận, điều trị tại BV Bình Dân từ năm 1990 đến hết tháng 9 năm 2003 trong các bệnh án lưu trử nhằm đạt được những mục tiêu trên. Kết quả: Trong thời gian trên, chúng tôi đã điều trị cho 210 BN phình ĐMC ngực-bụng và trên ĐM thận, tỉ lệ nam/nữ là 1.3, tuổi trung bình là 66. Sau khi có định bệnh, 19 TH phình ĐMC nhóm I, vì chưa có máy tim phổi nhân tạo, chúng tôi chuyển qua viện Tim tp HCM, 191 TH còn lại chúng tôi điều trị. 70% các TH có chỉ định mổ vì đã vỡ, dọa vỡ hoặc có triệu chứng nặng. 30% được điều trị bảo tồn vì hoặc túi phình nhỏ chưa có triệu chứng, hoặc vì nguy cơ PT quá cao không chấp nhận được ở những túi phình lớn nhưng chưa gây ra BC, hoặc có chỉ định mổ nhưng người bệnh từ chối. Nhiều PT khác nhau được ứng dụng như mổ ghép ĐMC, mổ ghép và tạo hình, mổ tạo hình, mổ bắc cầu trực tiếp hay ngoài cơ thể tùy theo tình trạng túi phình, túy theo cơ địa và thể trạng người bệnh, tùy theo phương tiện trang thiết bị PT, gây mê-hồi sức hiện có. Ở nhóm theo dõi, thì có chỉ định mổ hoặc khi túi phình lớn trên 6 cm, hoặc túi phình gây ra BC. Kết quả cho thấy tỉ lệ TV là 18.6 % ở nhóm mổ và 17.5 % ở nhóm theo dõi trong vòng 30 ngày. Những nguyên nhân gây TV chính trong nhóm mổ là sốc mất máu và rối loạn đông máu còn trong nhóm theo dõi là vỡ tự do, không can thiệp PT kịp. Bàn luận: Phình ĐMC ngực-bụng và phình ĐMC trên ĐM thận thường gặp ở BV Bình Dân, đa số nhập viện vì đã có BC. Vì thiếu phương tiện PT, gây mê-hồi sức, những chỉ định điều trị của chúng tôi còn chưa triệt để. Ở các nước tiên tiến, ngọaì trừ các TH đã bị BC phải mổ sớm, chỉ định PT chương trình cho các TH phình ĐMC ngực-bụng và trên thận lớn hơn 6 phân. Đại đa số là ghép nối trực tiếp qua PT qui ước hay nội mạch. Mặc dù BC còn cao mà lý do chính là rối loạn chức năng các bộ phận trên và dưới kẹp trong thời gian kẹp ĐMC, tỉ lệ TV qua nhiều báo cáo cho thấy trong khoảng 10%. Tỉ lệ TV trong nhóm bệnh điều trị của chúng tôi cao là do hầu hết đã bị BC trước, đặc biệt trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến năm 1996. Nhiều NC đã được ứng dụng làm giảm được tỉ lệ BC và TV có ý nghĩa như giảm áp lực cho tim, giảm thời gian thiếu máu nóng, giảm chuyển hóa cơ bản cho các bộ phận dưới kẹp, phòng ngừa rối loạn đông máu hay cung cấp đủ dịch cho các tạng dưới kẹp bằng cách truyền dịch trực tiếp vào từng tạng qua ĐM. Kết luận: Đối với chúng tôi, phẫu thuật phình ĐMC ngực-bụng và phình ĐMC trên ĐM thận còn là một thách thức lớn. Chúng tôi đang khắc phục những khó khăn để chỉ định PT đúng mức, ứng dụng những phương pháp PT trịệt để, gây mê-hồi sức tốt hòng đạt được KQ điều trị như ở các nước tiên tiến.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất