TỶ LỆ BIẾN THỂ NUDT15 TRÊN TRẺ BỆNH BẠCH CẦU CẤP DÒNG LYMPHO TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
TỶ LỆ BIẾN THỂ NUDT15 TRÊN TRẺ BỆNH BẠCH CẦU CẤP DÒNG LYMPHO TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
Nguyễn Thị Mai Lan1,2,, Hoàng Anh Vũ2,3, Dương Bích Trâm2,3, Phùng Nguyễn Thế Nguyên
Đặt vấn đề: Biến thể NUDT15 là biến thể có tần suất cao tại Châu Á và có liên quan đến chuyển hoá của thuốc 6-mercaptopurine (6-MP), một thuốc chủ lực trong điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng lympho. Những trẻ mang biến thể NUDT15 có khả năng chuyển hoá thuốc 6-MP kém hơn và có thể gây ra độc tính nghiêm trọng đe dọa tính mạng. Mục tiêu: Xác định tần suất biến thể NUDT15 ở trẻ em bệnh bạch cầu cấp dòng lympho tại bệnh viện Nhi Đồng 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 220 bệnh nhi bạch cầu cấp dòng lympho được điều trị tại bệnh Viện nhi đồng 2 từ 01/08/2020 đến 31/05/2021 được giải trình tự gen Sanger để xác định các biến thể NUDT15 trên exon 1 và exon 3 trên nhiễm sắc thể số 13. Kết quả: Chúng tôi ghi nhận sự hiện diện của các biến thể NUDT15 *1, *2, *3, *5, *6 lần lượt là 87%; 2,7%; 6,9%; 0,9% và 2,5%. Không phát hiện biến thể *4. Có 25% bệnh nhân có mang biến thể NUDT15 bao gồm dị hợp tử (24,1%) và đồng hợp tử / dị hợp tử kép (0,9%). Kết luận: Các biến thể gen NUDT15 hiện diện ở một phần tư số bệnh nhân bệnh bạch cầu cấp dòng lympho. Chúng tôi khuyến nghị cần xác định biến thể NUDT15 trước khi điều trị thuốc 6-MP để cá thể hoá điều trị.
Bệnh bạch cầu cấp là loại ung thư máu phổbiến nhất ở trẻ em, chiếm khoảng 30% các ca ung thư mới được chẩn đoán ở những bệnh nhân dưới 15 tuổi. Tỷ lệ mắc cao nhất là từ 2 đến 5 tuổi [3]. Bệnh bạch cầu cấp dòng lympho (BCCDL) chiếm 75% các trường hợp mắc bệnh bạch cầu cấp và tiên lượng rất khả quan với tỷ lệ sống sót lâu dài lên tới 90% [6]. Điều trị bệnh nhi BCCDL được chia thành ba giai đoạn khác nhau: tấn công, củng cố và duy trì. Giai đoạn duy trì thì kéo dài khoảng 2 đến 3 năm nhằm giảm nguy cơ tái phát ở bệnh nhi BCCDL[2]. Thuốc 6-mercaptopurine (6-MP) là thuốc chủ lực được sử dụng trong quá trình điều trị duy trì. Tuy nhiên, thuốc này có thể gây ra độc tính nghiêm trọng và đe dọa tính mạng khi điều trị với liều không phù hợp trên bệnh nhân có chuyển hoá thuốc kém [4].Việc xem xét tác dụng dược động học của các loại thuốc hoá trị là rất cần thiết, vì nó giúp giảm thiểu nguy cơ độc tính đe dọa tính mạng ở bệnh nhi BCCDL. Enzym NUDT15là một trong những cơ chế bảo vệ để giảm thiểu tổn thương DNAdo thuốc 6-MP. Nó khử phosphoryl các chất chuyểnhóa hoạt động của 6-MP là thio-guanine triphosphate (TGTP) và thioguanine diphosphate (TdGTP) và ngăn chặn sự kết hợp của chúng vào DNA, do đó làm giảm tác dụng gây độc tế bào của 6-MP. Những bệnhnhân mang biến thể NUDT15làm giảm hoạt tính của enzyme NUDT15, liều 6-MP điềutrị nhưbình thường có thể dẫn đến tích lũy TGTP có thể dẫn đến tổn thương DNA rộng và gây độc tế bào[5]. Trên thế giới, các biến thể NUDT15được xác định khá phổ biến chiếm 9,8% ở người Đông Á; 3,9% ở người gốc Tây Ban Nha và 0,2% ởngười Châu Âu, trong khi không tìm thấy biến thể này ở người châu Phi
Nguồn: https://luanvanyhoc.com