Tỷ lệ hiện mắc vô sinh và một số yếu tố ảnh hưởng
Vô sinh là một vấn đề khá phổ biến, mang tính xã hội và cần sự tham gia và phối hợp của toàn xã hội. Mục tiêu: xác định tỷ lệ vô sinh chung, vô sinh nguyên phát và thứ phát, trong cả nước cũng như tại các vùng sinh thái và một số yếu tố đặc trưng cá nhân ảnh hưởng đến vô sinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: bao gồm 14.396 cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, tuổi từ 15 – 49, tự nguyện tham gia nghiên cứu tại 8 tỉnh đại diện cho 8 vùng sinh thái của cả nước. Là một thiết kế nghiên cứu mô tả sử dụng kỹ thuật chọn mẫu 60 cụm/tỉnh và phỏng vấn cặp vợ chồng theo bộ phiếu phỏng vấn đã được chuẩn hoá. Kết quả: tỷ lệ vô sinh chung trên phạm vi toàn quốc là 7,7%, trong đó vô sinh nguyên phát là 3,9% và vô sinh thứ phát
là 3,8%. Tỷ lệ vô sinh chung cao nhất là ở tỉnh Khánh Hoà (13,9%) và thấp nhất là ở tỉnhHải Phòng (3,8%) và Quảng Ninh (3,9%). Những người phụ nữ trẻdưới 25 tuổi, có học vấn thấp, sống ở nông thôn, những phụ nữ có hút thuốc,có uống rượu, có vòng kinhkhông đều, có chồng hút thuốc, có chồng bịbướu cổ, chấn thương tinh hoàn và mắc quai bị có nguy cơ mắcvô sinh cao hơn những phụ nữ khác. Nghiên cứu đề xuất ngành y tế nói chung và ngành sản phụ khoa cần có những chính sách và kế hoạch để giảiquyết tình trạng vô sinh tại Việt Nam.. Kết luận và khuyến nghị: tỷ lệ vô sinh tại Việt Nam ở mức trung bình và có sự khác biệt giữa các vùng sinh thái và các nhóm cặp vợ chồng khác nhau. Nghiên cứu đề xuất ng ành y tế nói chung và ngành sản phụ khoa cần có những chính sách và kế hoạch để giải quyết tình trạng vô sinh tại Việt Nam.
Vô sinh là một vấn đề khá phổ biến, mang tính xã hội và tính nhân đạo rất cao trong mọi xã hội. Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG), vô sinh là tình trạng mà các cặp vợ chồng mong muốn có thai, sinh hoạt tình dục đều đặn, không sử dụng bất kỳ một biện pháp tránh thai nào nhưng không có thai trong vòng 12 tháng trước khi nghiên cứu [1]. Tỷ lệ vô sinh chung (bao gồm vô sinh nguyên phát và vô sinhthứ phát) trên thế giới dao động trong khoảng từ 6 – 12% [2]. Việc xác định tỷ lệ vô sinh của các cặp vợ chồng là rất khó khăn do thường là họ không thông báo với các thầy thuốc mà chỉ khi không có thai trong một thời gian dài thì họ mới đi khám và thông báo với thầy thuốc. Một tỷ lệ không nhỏ các cặp vợ chồng còn đi khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế tư nhân hoặc các tại các thầy lang, do vậy việc phát hiện ra tỷ lệ vô sinh là rất khó. Vô sinh bao gồm vô sinh nguyên phát và thứ phát. Vô sinh nguyên phát là vô sinhđáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn vô sinh như đã định nghĩa ở trên nhưng thêm vào đó là người vợ chưa bao giờ có thai kể từ khi lấy chồng. Ngược lại vô sinh thứ phát là người vợ đã từng có thai hoặc có con nhưng mong muốn có thai hoặc có thai thêm nhưng không được. Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ của vô sinh có thể từ phía người vợ hoặc từ phía người chồng hoặc cả hai vợ chồng. Tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ như hoá chất, sóng điện từ, tia phóng xạ, tác dụng phụ của sử dụng các biện pháp tránh thai, tai biến và hậu quả của nạo phá thai không an toàn, bệnh vùng tiểu khung, các rối loạn sinh lý, bệnh toàn thân và tại chỗ đều là những nguyên nhân hoặc yếu tố nguy cơ dẫn đến vô sinh [3].
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích