Tỷ lệ mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính và một số yếu tố liên quan ở trẻ dưới 5 tuổi tại huyện Ba Vì, Hà Nội năm 2010
Hiện nay, ở nhóm trẻ dưới 5 tuổi, nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (ARI) có số bệnh nhân mắc và tử vong chiếm tỷ lệ cao nhất. Nghiên cứu nhằm mục tiêu mô tả một số yếu tố liên quan và tỷ lê mắc ARI ở trẻ dưới 5 tuổi tại huyện Ba Vì – Hà Nội năm 2010. Kết quả cho thấy, trong một tháng, 72% trẻ dưới 5 tuổi bị mắc ARI. Tỷ lệ này ở trẻ gái cao hơn trẻ trai (75% so với 71%, p < 0,05). Nhóm trẻ từ 12 – 60 tháng tuổi có tỷ lệ mắc ARI cao nhất (76,8%). Trẻ thuộc hộ gia đình có điều kiện kinh tế thấp, mẹ làm ruộng có tỷ lệ mắc ARI cao hơn so với trẻ ở những nhóm khác (p < 0,05). Cần chú trọng công tác truyền thông phòng chống ARI cho trẻ dưới 5 tuổi nhằm làm giảm tỷ lệ mắc ARI, đặc biệt lưu ý đối với các hộ nghèo có trẻ.
Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (ARI) là bệnh lý thường gặp ở trẻ em và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong đối với trẻ dưới 5 tuổi [5]. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), năm 2002 có khoảng 3,9 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị tử vong do ARI, mỗi trẻ mắc ít nhất là 5 – 8 đợt ARI trong một năm, ARI chiếm đến 30 – 40% số trẻ em phải nhập viện [6].
Tại Việt Nam, tỷ lệ tử vong do ARI ở trẻ em chiếm khoảng 35% số trẻ tử vong nói chung [3, 4]. Hàng năm, các bệnh viện phải tiếp nhận hàng triệu trẻ em đến khám và chữa bệnh vì ARI. Theo thống kê năm 2005, mỗi ngày có gần 200 bệnh nhi ARI điều trị nội trú tại Bệnh viện Nhi Đồng I và II, thành phố Hồ Chí Minh; trong đó trẻ dưới 12 tháng tuổi chiếm đến 60%. Theo nghiên cứu của chương trình ARI quốc gia, trung bình một trẻ mắc ARI 4 – 6 lần trong 1 năm [4].
Bị mắc ARI không chỉ ảnh hưởng tới sức khỏe và sự phát triển tinh thần của trẻ mà còn ảnh hưởng tới kinh tế hộ gia đình có trẻ mắc bệnh, vì bố mẹ trẻ phải nghỉ việc để chăm sóc con cái và phải trả một khoản chi phí tương đối cho việc khám chữa bệnh của trẻ. Do tầm quan trọng của ARI, đầu năm 1983 WHO đã phát động chương trình phòng chống ARI cho trẻ em trên toàn thế giới [5] và hiện nay công tác này được lồng ghép triển khai trong chương trình IMCI [6].
Ở Việt Nam, chương trình phòng chống ARI được thành lập và hoạt động từ năm 1984. Việt Nam là một trong những nước đầu tiên triển khai chương trình này tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương, với mục tiêu chính là làm giảm tỷ lệ tử vong của trẻ do viêm phổi, tiếp theo là giảm tỷ lệ mắc ARI ở trẻ em, đặc biệt là trẻ dưới 5 tuổi [4].
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về ARI được tiến hành tại Việt Nam. Phần lớn các đề tài này thu thập số liệu tại các bệnh viện. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có một tỷ lệ không nhỏ trẻ mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tại cộng đồng mà không đến khám chữa bệnh tại các cở sở y tế công lập. Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ mắc ARI ở trẻ dưới 5 tuổi tại huyện Ba Vì – Hà Nội, năm 2010.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến tỷ lệ mắc ARI của trẻ dưới 5 tuổi tại huyện Ba Vì – Hà Nội, năm 2010.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Địa điểm nghiên cứu: nghiên cứu được thực hiện tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, trong khuôn khổ của Cơ sở Thực địa Dịch tễ học Ba Vì (FilaBavi).
2. Đối tượng: tất cả trẻ dưới 5 tuổi tại cơ sở thực địa FilaBavi.
3. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu trong nghiên cứu mô tả cắt ngang:
Z21-a/2 x p(1 -p) n = —
d2
Trong đó:
n: cỡ mẫu tối thiểu cần nghiên cứu
a; Mức ý nghĩa thống kê (được quy ước bởi người nghiên cứu).
Z a/2: Giá trị Z thu được từ bảng Z ứng với giá trị a được chọn.
p: tỷ lệ mắc ARI ước tính trong cộng đồng. Trong nghiên cứu chúng tôi lấy p = 0,61 [16].
d: độ chính xác, chúng tôi lấy d = 0,03.
Cỡ mẫu nghiên cứu tính được là 1015. Để giảm sai số do kỹ thuật chọn mẫu cụm chúng tôi tăng cỡ mẫu nghiên cứu lên 2000. Ước tính số trẻ em dưới 5 tuổi tại FilaBavi vào một thời điểm có khoảng 2200 trẻ. Do vậy, chúng tôi thu thập thông tin của tất cả trẻ em dưới 5 tuổi tại cơ sở thực địa FilaBavi.
4. Thời gian thu thập số liệu tại thực địa: từ 01/04/2010 – 30/6/2010.
Trong nghiên cứu này, tất cả các hộ gia đình có trẻ em dưới 5 tuổi được phỏng vấn về tình trạng sức khỏe của trẻ trong vòng 4 tuần trước ngày phỏng vấn.
Việc thu thập thông tin được thực hiện bởi 42 điều tra viên tại FilaBavi.
Các biến số và chỉ số và chỉ số nghiên cứu
Trẻ bị mắc ARI khi có dấu hiệu ho có thể có kèm theo một hoặc nhiều trong số các triệu chứng sau: sốt, sổ mũi, khó thở.
Tuổi của trẻ: tuổi của trẻ được tính theo ngày dương lịch, chia làm 3 nhóm: nhóm 1: trẻ 0 – ắ 2 tháng tuổi; nhóm 2: trẻ từ > 2 – 12 tháng tuổi; nhóm 3: trẻ từ > 12 – 60 tháng tuổi.
Điều kiện kinh tế: phân loại điều kiện kinh tế của các hộ gia đình dựa trên chỉ số thịnh vượng (Wealth Index, được ngân hàng thế giới áp dụng khi đánh giá điều kiện kinh tế) phụ thuộc vào các điều kiện về nhà cửa, vệ sinh, đất đai sở hữu, thu nhập và chi tiêu. Nghiên cứu chia các hộ gia đình thành 3 nhóm điều kiện kinh tế thấp, trung bình và khá.
Nghề nghiệp của mẹ trẻ dưới 5 tuổi chia làm 3 nhóm: làm ruộng, cán bộ công nhân viên chức (CBCNVC) và nghề khác.
Trình độ học vấn của mẹ chia làm 3 nhóm: chưa học hết phổ thông trung học (PTTH), có trình độ PTTH và học cao hơn PTTH (sơ, trung cấp, đại học…).
5. Phân tích số liệu: nghiên cứu sử dụng phần mềm Access 2000 để nhập số liệu, phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS phiên bản 10.0. Thuật toán Khi bình phương (c2) được sử dụng nhằm so sánh sự khác biệt giữa các nhóm. Nghiên cứu sử dụng mức ý nghĩa a = 0,05 và khoảng tin cậy là 95%.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích