Tỷ lệ mắc, tử vong và một số yếu tố liên quan của viêm phổi thở máy

Tỷ lệ mắc, tử vong và một số yếu tố liên quan của viêm phổi thở máy

Nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ mắc, tỷ lệ mắc mới, tỷ lệ tử vong của viêm phổi thở máy (VPTM) và mô tả một số yếu tố liên quan tới VPTM tại các khoa hồi sức tích cực bệnh viện Nhi Trung ương. Kết quả: 120 bệnh nhân thở máy đủ tiêu chuẩn nghiên cứu, với tổng số 1162 ngày thở máy; Tỷ lệ mắc 26,7%; tỷ lệ mắc mới 27,5/1000 ngày thở máy; tỷ lệ tử vong 46,7%; Liên quan giữa VPTM với giới (OR = 1,3; p > 0,05); với tuổi < 1 tuần và > 1 tuần (OR = 0,65; p > 0,05); với khoa điều trịỵ = 3.05; p > 0,05); với chẩn đoán lúc vào viện:
sơ sinh non tháng (OR = 0,91; 95%CI: 0,38 – 2,17), bệnh tim mạch (OR = 1,0; 95%CI: 0,25 – 3,96),bệnh hô hấp (OR=1,83; 95% Cl: 0,77 – 4,34), NKH (OR = 2,37; 95%CI:2,69 – 9,13); với đường đặt NKQ (OR = 2,71; p > 0,05); với thời gian thở máy > 4 ngày ix = 5,5; p = 0,018. 75% vsv phân lập được là vi khuẩn Gram (-), hàng đầu là p. aeruginosa. Kết luận: Tỷ lệ mắc, tỷ lệ mắc mới, tỷ lệ tử vong VPTM cao. Bước đầu thấy VPTM liên quan với thời gian thở máy trên 4 ngày.
Viêm phổi thở máy (VPTM) là một trong những loại nhiễm khuẩn mắc phải thường gặp nhất trong bệnh viện, làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh, kéo dài thời gian thở máy, thời gian nằm viện, tỷ lệ tử vong tăng lên và tăng các chi phí trong bệnh viện [5, 8, 9].
Theo nghiên cứu ở các nước phát triển, VPTM xảy ra trong 10 – 20% trong số các bệnh phải thở máy từ 48 giờ trở lên [2]. Tỷ lệ tử vong từ 24 – 50% và tăng lên đến 76% nếu căn nguyên là các vi khuẩn đa kháng với khánh sinh [3]. Bệnh nhân mắc VPTM có khả năng tử vong cao gấp hai lần so với bệnh nhân không có VPTM [6]. Tại các đơn vị hồi sức cấp cứu trẻ em tỷ lệ VPTM chiếm 3,3% tổng số bệnh nhân nhập viện; 5,1% tổng số bệnh nhân thở máy và tỷ lệ mắc mới là 11,6/1000 ngày thở máy [5]. Trong khi đó ở các quốc gia đang phát triển cho đến năm 2007 chỉ có khoảng 15 nghiên cứu về VPTM được xuất bản [1, 7]. Trong đó chỉ có 1 nghiên cứu được thực hiện ở Đông Nam Á. Hầu hết các nghiên cứu chỉ đề cập đến việc xác định tỷ lệ xuất hiện (proportion) và tỷ suất mắc mới (incidence rate) VPTM [1,7].
Ở Việt Nam VPTM cũng là loại nhiễm khuẩn bệnh viện đứng hàng đầu [10,11], tuy nhiên chưa có các nghiên cứu đề cập đến tỷ lệ mắc mới, tỷ lệ tử vong và các yếu tố nguy cơ của VPTM. Bệnh viện Nhi Trung ương, nơi tiếp nhận bệnh nhi nặng từ tất cả các tuyến trong cả nước có khoảng 100 bệnh nhân thở máy/ngày và có nhiều nguy cơ xuất hiện VPTM. Hiểu biết về thực trạng VPTM tại bệnh viện bao gồm tỷ lệ mắc, tỷ lệ tử vong và các yếu tố nguy cơ là cơ sở để cảnh báo và phòng ngừa VPTM tại bệnh viện với mục tiêu: Xác định tỷ lệ mắc, tỷ lệ mới mắc, tỷ lệ tử vong của VPTM. Mô tả một số yếu tố liên quan tới VPTM tại các khoa hồi sức tích cực bệnh viện Nhi Trung ương.
II.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1.    Địa điểm
Nghiên cứu được tiến hành tại ba khoa Hồi sức cấp cứu (HSCC), Hồi sức sơ sinh (HSSS) và Hồi sức Ngoại khoa (HSN) bệnh viện Nhi Trung ương.
2.    Thời gian
Từ tháng 1/2009 đến tháng 2/2009.
3.    Đối tượng
3.1.    Quần thể nghiên cứu: Tất cả các bệnh nhân được thông khí hỗ trợ bằng máy thở, điều trị tại 3 khoa hồi sức tích cực Bệnh viện Nhi Trung ương
3.2.    Tiêu chuẩn lựa chọn: Bệnh nhân nhập viện thoả mãn các điều kiện.
–    Được đặt nội khí quản tại khoa và thở máy từ 48 giờ trở lên.
–    Được đặt nội khí quản trong vòng 24 giờ trước khi nhập vào khoa và được thở máy tại khoa từ 48 giờ trở lên.
3.3.    Tiêu chuẩn loại ừừ
–    Bệnh nhân thở máy dưới 48 giờ.
–    Bệnh nhân được đặt NKQ từ 24 giờ trở lên trước khi nhập vào khoa.
4.    Phương pháp
4.1.    Thiết kế nghiên cứu: mô tả, tiến cứu.
4.2.    Tiêu chuẩn xác định VPTM: theo tiêu chuẩn của Trung tâm kiểm soát bệnh tật – Hoa Kỳ (CDC) năm 2004, bổ sung năm 2008.
4.3.    Các biến số và chỉ số nghiên cứu
–    Các biến nhằm xác định ca bệnh VPTM: tình trạng sốt/hạ nhiệt độ; nhịp tim; tính chất đờm; ran phổi; tính chất thông khí; số lượng bạch cầu (SLBC); dấu hiệu trên phim X – quang phổi…
–    Các biến tỷ lệ: tỷ lệ mắc; tỷ lệ mắc mới; tỷ lệ tử vong.
–    Các biến phơi nhiễm để đo lường khả năng làm tăng nguy cơ xuất hiện VPTM: tuổi; giới tính; chẩn đoán lúc nhập viện; khoa điều trị; số ngày thở máy; đường đặt nội khí quản (NKQ).
4.4.    Thu thập số liệu: số liệu được thu thập bằng bệnh án nghiên cứu. Mỗi bệnh nhân được theo dõi hàng ngày từ lúc được đặt NKQ cho đến khi: bệnh nhân thoát ống NKQ và 48 giờ liền sau

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment