Tỷ lệ nhiễm virus viêm gan b, virus viêm gan c, đồng nhiễm virus viêm gan b/c và kiểu gen của virus viêm gan b thuộc khu vực biên giới Việt – Trung huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai

Tỷ lệ nhiễm virus viêm gan b, virus viêm gan c, đồng nhiễm virus viêm gan b/c và kiểu gen của virus viêm gan b thuộc khu vực biên giới Việt – Trung huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai

Hiện  nay  thế  giới  có  gần  400  triệu  người nhiễm virus viêm gan B (HBV: hepatitis B virus) mạn tính và khoảng 170 triệu người nhiễm virus viêm gan C (HCV: hepatitis C virus) mạn tính. HBV và HCV là những nguyên nhân hàng đầu gây viêm gan mạn, xơ gan và ung thư gan. Tuy vậy không phải tất cả các trường hợp nhiễm HBV đều chuyển thành nhiễm HBV mạn tính. Chỉ có khoảng 5 – 10% số người nhiễm HBV chuyển thành mạn tính, nhiễm HBV ở độ tuổi càng nhỏ, đặc biệt là nhiễm qua con đường mẹ con, tỷ lệ chuyển thành nhiễm HBV mạn tính càng cao, có thể lên đến 50 – 90%. Quá trình nhiễm HBV mạn tính được chia làm 4 giai đoạn cơ bản, giai đoạn dung nạp miễn dịch, giai đoạn đáp ứng miễn dịch, giai đoạn virus không hoạt động  và giai đoạn virus tái hoạt động trở lại. Các giai đoạn nhiễm HBV mạn tính có đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm (sinh hoá, miễn dịch và virus) khác nhau [3]. Khác với HBV, hiện nay quá trình diễn biến tự nhiên của HCV chưa được nghiên cứu và hiểu biết đầy đủ, nhiều vấn đề liên quan tới HCV cần được nghiên cứu thêm và cần đưa ra các khái niệm  mang  tính  thống  nhất  cao  hơn  nữa  trên phạm vi toàn cầu [1]. Việt Nam thuộc khu vực nhiễm HBV rất cao, tuy nhiên chúng ta chưa có những nghiên cứu qui mô lớn để đánh giá tỷ lệ nhiễm HBV mạn tính toàn diện trên phạm vi toàn quốc, nhiều vùng sâu – vùng xa chưa có số liệu. Đánh giá tỷ lệ nhiễm HCV thì thực sự chúng ta còn quá ít số liệu. Nghiên cứu này được tiến hành với mục tiêu:
Đánh  giá  tỷ  lệ  nhiễm  HBV,  nhiễm  HCV, đồng nhiễm HBV/HCV ở cộng đồng các dân tộc thuộc khu vực biên giới Việt – Trung huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai và phân loại kiểu gen của HBV trên mẫu nghiên cứu nhằm góp phần xây dựng bản đồ kiểu gen của HBV tại Việt Nam.
I.    ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU
1.    Đối tượng nghiên cứu
Nghiên  cứu  bao  gồm  683  đối  tượng  tình nguyện tham gia một chương trình điều tra cộng đồng tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai trong đó có 317 nam và 366 nữ với tuổi trung bình 22,13 ± 17,6 (cao nhất 90 tuổi, thấp nhất 0,3 tuổi). Bao gồm năm dân tộc, Kinh (n = 79), Mông (n = 206), Dao Đỏ (n = 98), Giáy (n = 251) và Tày (n = 49).
2.    Phương pháp nghiên cứu
Xác định HBsAg dương tính, IgG anti – HBc của HBV dương tính và anti – HCV dương tính bằng phương pháp ELISA. Các trường hợp HBsAg âm tính hoặc nghi ngờ dương tính được làm lại bằng một phương pháp có độ nhạy rất cao trên hệ thống máy Lumipulse – fort. Định lượng nồng độ HBV – DNA bằng phương pháp real – time PCR.
Để phân loại kiểu gen của HBV, một đoạn gen S với chiều dài khoảng 1000 nucleotides ở 26 đối tượng nhiễm HBV được khuyếch đại bằng phương pháp PCR lồng (nested PCR). Sản phẩm PCR được làm tinh khiết trước khi tiến hành giải trình tự gen bằng máy ABI PRISM 3100 của Hoa Kỳ với kít Big Dye Terminator 3.1. Các chương trình xử lý sinh học Clustal X, Mega 4.1 được sử dụng để xây dựng cây phân loại sinh học (phylogenetic tree analysis). Trong quá trình làm có đối chiếu với các bản giải trình tự gen của HBV trên thế giới, đặc biệt là các bản giải trình tự gen của HBV thuộc khu vực Đông Nam châu Á, Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên. Toàn bộ quá trình phân tích tiến hành tại Nhật Bản.

Mục tiêu: nghiên cứu tỷ lệ nhiễm HBV, HCV và đồng nhiễm HBV/HCV tại huyện Bát Xát, Lào Cai. Phân loại kiểu gen của HBV trên mẫu nghiên cứu nhằm góp phần xây dựng bản đồ kiểu gen của HBV tại Việt Nam. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: gồm 683 đối tượng từ năm dân tộc khác nhau. Xác định nhiễm HCV bằng ELISA, HBV bằng ELISA và Lumipulse – fort. Định lượng nồng độ HBV – DNA bằng real – time PCR, phân loại kiểu gen của HBV bằng cây phân loại sinh học ở 26 đối tượng. Kết quả: tỷ lệ HBsAg dương tính trong quần thể nghiên cứu 15,7%, cao nhất ở dân tộc Kinh 22,8%, thấp nhất ở dân tộc Giáy 13,5% và Tày 10,2%. Tỷ lệ nhiễm HCV 6,6%, thấp nhất ở dân tộc Kinh 0%, cao nhất ở dân tộc Mông 9,7%. Tỷ lệ đồng nhiễm HBV/HCV 1,3% và tỷ lệ IgG anti – HBc dương tính 82,1%. Tỷ lệ kiểu gen B 54% và kiểu gen C 46%. Kết luận: tỷ lệ HBsAg dương tính ở huyện Bát Xát, Lào Cai cao ở tất cả các dân tộc. Phần lớn dân cư huyện Bát Xát đều có tiền sử nhiễm HBV, hai kiểu gen cơ bản của HBV là kiểu gen B và kiểu gen C. Tỷ lệ nhiễm HCV ở mức độ trung bình và không đồng đều giữa các dân tộc.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment