Tỷ số giới tính khi sinh tại Việt Nam năm 2006

Tỷ số giới tính khi sinh tại Việt Nam năm 2006

Tỷ số giới tính khi sinh tại Việt Nam hiện đang ở mức độ mất cân bằng, trẻ nam được sinhra nhiều hơn trẻ nữ. Mục tiêu:(1) Mô tả xu hướ ng và phân bố tỷ số giới tính khi sinh theo thời gian và theo các vùng địa lý; (2) Thăm dò mối liên quan giữa tỷ số giới tính khi sinh và tỷ lệ nạo thai tại các vùngtrong cả nước năm 2006. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 3840 trạm y tế xã, 723 bệnh viện huyệ n/phòng khám đa khoa khu vực và 132 bệnh viện tỉnh/ bệnh viện Trung ương với số trẻ sinh ra là 1.095.064 trẻ (chiếm 78% số trẻ sinh ra trong toàn quốc) và số liệu từ cuộc điều tra biến động dân số hàng năm 2007. Kết quả và kết luận:tỷ số giới tính khi sinh đã có xu hướng mấtcân bằng rõ rệt (110 – 113 bé nam/100 bé nữ). Sự mất cân bằng giới tính khi sinh khác biệt có ý nghĩa thống kê theotỉnh và có xu hướ ng mất cân bằng nhiều hơn ở các tỉnh phíaBắc. Tỷ số giới tính khi sinh cao có mối liên quan tỷ lệ thuận với tỷ lệ nạo hút thai. Việt Nam cần phải có các biện pháp mạnh hơn nữa để tránh lặp lại sự mất cân bằng giới tính khi sinh trong tương lai như Trung Quốcvà Ấn Độ.

Để đánh giá sự cân bằng về giới tính khi sinh người ta thường sử dụng chỉ số “tỷ số giới tính khi
sinh”.  Tỷ  số  này  được  biểu  thị  bằng  số  bé  nam sinh ra trên 100 bé nữ được sinh ra. Tỷ số giớitính khi sinh là một vấn đề rất phức tạp, có liên quan mật  thiết  với  thực  trạng  kinh  tế  xã  hội  của từng vùng, từng quốc gia. Bình thường, tỷ số giớitính khi sinh dao động trong khoảng 103 – 107 bé trai trên 100 bé gái. Trung Quốc và Ấn Độ là những nước hiện đangcó mất cân bằng khá lớn về tỷ số giới tính khi sinh. Năm 1982, tỷ số giới tính khi sinh của Trung Quốc là khoảng 109, đến năm 2000, tỷ số này là 117 và hiện  nay  là 119.  Ở  một  số  vùng nông  thôn  Trung Quốc, tỷ số này đã lên tới 133 [1].
Ở  nước  ta  trong  thời  gian  gần  đây  có  một  số nghiên cứu về vấn đề này và kết quả cho thấy tỷ số giới tính khi sinh đã vượt quá mức bình thường. Các nghiên cứu về biến động dân số hàng năm do Tổng cục Thống kê thực hiện đã cho thấy từnăm 2000 tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam đãở mức trên dưới 110 [2].
Các yếu tố dẫn đến sự mất cân bằng giới tính khi sinh cũng đã được nghiên cứu đến, đó là: (1) tư tưởng trọng nam khinh nữ; (2) quy mô gia đình nhỏ đã được chấp nhận rộng rãi (1 – 2 con/ gia đình) và (3) khả năng tiếp cận của người phụ nữ đếnkỹ thuật siêu âm chẩn đoán giới tính trước khi sinh và cho phép nạo phá thai tại các cơ sở y tế [3]. Hậu quả của mất cân bằng giới tính khi sinh  đã được một số nghiên cứu đề cập tới, đó là:thừa nam giới, gây nên tình trạng di dân quốc tế do kết hôn giữa các quốc gia, tăng tỷ lệ luyến ái đồng tínhvà có tác động xấu đến sự phát triển của xã hội [4].  Mục tiêu:
1. Nghiên cứu mô tả xu hướng và phân bố tỷ số giới tính khi sinh theo thời gian và theo các vùng địa lý.
2. Thăm dò mối liên quan giữa tỷ số giới tínhkhi sinh và tỷ lệ nạo thai tại các vùng trong cả nước năm 2006.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment