Tỷ số giới tính khi sinh tại Việt Nam năm 2006
Để đánh giá sự cân bằng về giới tính khi sinh người ta thường sử dụng chỉ số “tỷ số giới tính khi sinh”. Tỷ số này được biểu thị bằng số bé nam sinh ra trên 100 bé nữ được sinh ra. Tỷ số giới tính khi sinh là một vấn đề rất phức tạp, có liên quan mật thiết với thực trạng kinh tế xã hội của từng vùng, từng quốc gia. Bình thường, tỷ số giới tính khi sinh dao động trong khoảng 103 – 107 bé trai trên 100 bé gái.
Trung Quốc và Ấn Độ là những nước hiện đang có mất cân bằng khá lớn về tỷ số giới tính khi sinh. Năm 1982, tỷ số giới tính khi sinh của Trung Quốc là khoảng 109, đến năm 2000, tỷ số này là 117 và hiện nay là 119. Ở một số vùng nông thôn Trung Quốc, tỷ số này đã lên tới 133 [1].
Ở nước ta trong thời gian gần đây có một số nghiên cứu về vấn đề này và kết quả cho thấy tỷ số giới tính khi sinh đã vượt quá mức bình thường. Các nghiên cứu về biến động dân số hàng năm do Tổng cục Thống kê thực hiện đã cho thấy từ năm 2000 tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam đã ở mức trên dưới 110 [2].
Các yếu tố dẫn đến sự mất cân bằng giới tính khi sinh cũng đã được nghiên cứu đến, đó là: (1) tư tưởng trọng nam khinh nữ; (2) quy mô gia đình nhỏ đã được chấp nhận rộng rãi (1 – 2 con/ gia đình) và
(3) khả năng tiếp cận của người phụ nữ đến kỹ thuật siêu âm chẩn đoán giới tính trước khi sinh và cho phép nạo phá thai tại các cơ sở y tế [3].
Hậu quả của mất cân bằng giới tính khi sinh đã được một số nghiên cứu đề cập tới, đó là: thừa nam giới, gây nên tình trạng di dân quốc tế do kết hôn giữa các quốc gia, tăng tỷ lệ luyến ái đồng tính và có tác động xấu đến sự phát triển của xã hội [4]. Mục tiêu:
1. Nghiên cứu mô tả xu hướng và phân bố tỷ số giới tính khi sinh theo thời gian và theo các vùng địa lý.
2. Thăm dò mối liên quan giữa tỷ số giới tính khi sinh và tỷ lệ nạo thai tại các vùng trong cả nước năm 2006.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thiết kế nghiên cứu: là thiết kế nghiên cứu ngang mô tả điều tra hộ gia đình.
2. Mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu bao gồm 2 nghiên cứu: (1) 1.095.064 trẻ sinh ra tại 3840 trạm y tế xã, 723 bệnh viện huyện/ phòng khám đa khoa khu vực và 132 bệnh viện tỉnh/ bệnh viện Trung ương (chiếm tỷ lệ 78% số trẻ sinh ra trong toàn quốc năm 2007) và (2) 30.000 trẻ sinh ra trong cuộc điều tra biến động dân số năm 2006.
3. Kỹ thuật thu thập thông tin
Phiếu thu thập thông tin tại các cơ sở y tế gồm 2 phần như sau: (1) phần thông tin định danh, (2) ghi thông tin số sinh năm 2006. Dựa vào sổ đẻ, ghi số lượng sinh sống tại cơ sở y tế từ 1/1/2006 đến hết 31/12/2006 chia ra số trẻ là trai và số trẻ là gái. Cuộc điều tra này được thự hiện trên 64 tỉnh, thành phố trên khắp cả nước. Điều tra viên đến các trạm trực tiếp thu thập thông tin từ sổ đẻ của trạm y tế xã để ghi phiếu. Các bệnh viện của tất cả các huyện và một số phòng khám đa khoa khu vực ở trên một xã có địa bàn thuộc điều tra biến động dân số 2006: cán bộ thống kê huyện hoặc điều tra viên đến bệnh viện trực tiếp thu thập thông tin từ Sổ đẻ của bệnh viện để ghi phiếu. Các bệnh viện tỉnh, trung ương có khoa sản và các bệnh viện phụ sản đóng trên địa bàn tỉnh/ thành phố: cán bộ phòng thống kê dân số của Cục Thống kê tỉnh đến bệnh viện trực tiếp thu thập thông tin từ Sổ đẻ của bệnh viện để ghi phiếu.
Phiếu điều tra biến động dân số năm 2006 – 2007 được thu thập tại hộ gia đình và có phỏng vấn về lịch sử sinh sản, nạo phá thai từ năm 2000 trở lại đây.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích