Ứng dụng kỹ thuật elisa trong nghiên cứu dịch tễ học miễn dịch sốt rét
Bằng việc phát hiện kháng thể chống sốt rét, kỹ thuật miễn dịch hấp phụ gắn enzyme (enzyme-linked immunosorbent assay, ELISA) cho thấy có nhiều ưu điểm hơn so với chỉ số ký sinh trùng trong việc đánh giá mức độ lưu hành sốt rét. Mục tiêu: xác định tỷ lệ có kháng thể chống ký sinh trùng sốt rét và đánh giá kết quả chương trình can thiệp ở nhóm người dân tộc Raglai, tỉnh Ninh Thuận. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu tiến hành trên 827 người Raglai, sử dụng kỹ thuật ELISA để phát hiện kháng thể chống sốt rét trong các mẫu huyết thanh. Kết quả và kết luận: Trong tổng số 827 mẫu thu được, tỷ lệ ELISA dương tính với P. falciparum trước can thiệp là 45,5% (95%CI: 0,420 – 0,489). Tỷ lệ kháng thể dương tính tăng theo nhóm tuổi và không có khác biệt giữa nam và nữ. Sau can thiệp, tỷ lệ kháng thể dương tính giảm xuống còn 28,4% (0,254 – 0,316) với hệ số hiệu quả can thiệp là 37,6%.
Từ khóa: ELISA, miễn dịch hấp phụ gắn enzyme, sốt rét, dịch tễ học miễn dịch, kháng thể.
I. ĐẶT VAN ĐỂ
Bênh sốt rét là một trong những vấn đề cộng đồng nghiêm trọng nhất trên thế giới. Theo Tổ chức y tế thế giới, sốt rét hiên đang lưu hành ở 107 quốc gia với khoảng 350-500 triệu ca sốt rét lâm sàng mỗi năm, làm chết hơn 1 triệu người [7].
Việt Nam nằm trong vùng lưu hành sốt rét, có tổng dân số nguy cơ sốt rét chiếm 48% tổng dân số toàn quốc với 1.279.812 bệnh nhân mắc sốt rét (tính từ năm 2000 tới 9/2007) [1]. Hiện nay, mặc dù bệnh sốt rét đã và đang được khống chế khá hiệu quả, nhưng bệnh vẫn diễn biến phức tạp và có nguy cơ quay trở lại ở một số địa phương, đặc biệt là vùng Tây Nguyên, miền Trung và Đông Nam Bộ.
Việc đánh giá tỷ lệ hiện mắc theo chỉ số lam bằng phương pháp kính hiển vi mang tính chủ quan và gặp nhiều khó khăn khi mật độ ký sinh trùng sốt rét trong máu đã giảm xuống quá thấp (dưới ngưỡng phát hiện của kính hiển vi). Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét trên toàn quốc chỉ còn 0,27/1.000 dân (đánh giá kết quả thực hiện phòng chống sốt rét năm 2006 và phương hướng năm 2007), thì việc xác định tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét trong các điều tra cắt ngang rất thấp có khi không phát hiện được trường hợp nào.
Do các kháng thể chống sốt rét tồn tại trong một thời gian dài, nên việc phát hiện các kháng thể này bằng phương pháp miễn dịch cho phép đánh giá được sự phơi nhiễm sốt rét theo thời gian và ước tính mức độ lưu hành sốt rét. Trong các kỹ thuật huyết thanh học, phương pháp miễn dịch hấp phụ gắn enzyme (ELISA) là một kỹ thuật có độ nhậy, độ đặc hiệu cao, không phức tạp và dễ áp dụng. Tại Việt Nam, tuy có các nghiên cứu về huyết thanh học sốt rét trên quy mô quần thể, nhưng chủ yếu đều sử dụng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu: |[Dr.1]xác định tỷ lệ có kháng thể chống ký sinh trùng sốt rét và đánh giá kết quả của biện pháp can thiệp phòng chống vector |[Dr.2]sốt rét cho nhóm ngưòi dân tộc Raglai huyện Bắc Ái, tỉnh Ninh Thuận. |[Dr.3]
n. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Địa điểm nghiên cứu:
Các mẫu máu được thu thập tại ba xã: Phước Đại, Phước Tân, Phước Tiến, huyện Bắc Ái, tỉnh Ninh Thuận vào 2 đợt: tháng 4/2006 và tháng 12/2006.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Người Raglai sống ở 3 xã nói trên được lấy mẫu máu trong hai đợt điều tra: trước khi bắt đầu can thiệp và sau can thiệp 8 tháng. Biện pháp can thiệp là phòng chống vector bằng hóa chất alpha cypermethrin 10 SC, phun lên tường vách (ở những nơi có tỷ lệ ngủ màn thấp < 70%) và tẩm màn (nơi có tỷ lệ ngủ màn trên > 70%). Các mẫu máu được chọn ngẫu nhiên hệ thống từ các mẫu máu được điều tra trong chương trình phòng chống sốt rét quốc gia tại huyện Bắc Ái. Tiêu chuẩn lựa chọn: đối tượng phải có đồng thời cả hai mẫu máu trước và sau can thiệp.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích