Ứng dựng kỹ thuật MAC-ELISA chẩn đoán viêm não Nhật Bản tại bệnh viện Bạch Mai trong 5 năm (1997- 2001)
Viêm não Nhật Bản (VNNB) là một bệnh nhiễm trùng thần kinh do virút viêm não gây ra. Virút viêm não gây nên những vụ dịch có chu kỳ với tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ tử vong và di chứng khá cao. Bệnh xảy ra theo mùa khá rõ rệt, chủ yếu là mùa hè. Bệnh viêm não do virút VNNB l−u hành ở các nước thuộc khu vực Châu ¸ và Tây Thái Bình Dương. Hàng năm Châu ¸ có khoảng 50.000 trường hợp mắc bệnh viêm não Nhật Bản ].A Nhật bản từ năm 1970 đã thanh toán được bệnh VNNB do việc sử dụng tiêm chủng rộng rãi vácxin viêm não cho trẻ em. Hàng năm chỉ có khoảng dưới 20 trường hợp mắc bệnh [1]. ở Hàn Quốc, số trường hợp mắc bệnh VNNB giảm có ý nghĩa từ sau năm 1983 cũng do kết quả tiêm chủng rộng rãi vácxin VNNB [10]. Thái Lan đang là một vùng dịch VNNB lưu hành nghiêm trọng [10]. ở ấn Độ tại vùng Uttarpradesh, từ năm 1997- 2001 số trường hợp mắc VNNB là 4566, trong đó có 931 tr−ờng hợp tử vong [10].
Ở Việt Nam, vụ dịch viêm não mùa hè năm 1959 ở miền Bắc đã được xác định là do virút VNNB. Từ đó cho đến nay, dịch viêm não thường xảy ra hàng năm dưới dạng tản phát hoặc ồ ạt và ngày càng có khuynh hướng lan rộng. Theo thông kê của viện Vệ sinh dịch tễ Trung Ương Hà Nội thì VNNB là một trong 5 bệnh truyền nhiễm nguy hiểu có tỷ lệ mắc và tử vong khá cao. Bệnh viêm não Nhật Bản chủ yếu gặp ở trẻ em dưới 15 tuổi.
Theo Lê Đức Hinh (khoa Thần kinh bệnh viện Bạch Mai) từ năm 1960 – 1980 ở miền Bắc thường gặp VNNB ở trẻ em, nhưng từ năm 1980 trở lại đây VNNB ở người lớn tăng dần theo thời gian [2].
Sử dụng vácxin VNNB phòng bệnh là biện pháp phòng chống có hiệu quả nhất. Sau những kết quả thử nghiệm vácxin VNNB trên thực địa đạt kết quả tốt, vácxin VNNB do viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, Hà Nội sản xuất đã được đưa vào “Chương trình tiêm chủng mở rộng” để phòng bệnh cho trẻ em từ 1 – 5 tuổi ở một số vùng trọng điểm từ năm 1997. Kết quả cho thấy việc sử dụng vácxin VNNB phòng bệnh cho trẻ em đã làm thay đổi tỷ lệ mắc VNNB theo chẩn đoán huyết thanh học trong nhóm tuổi được sử dụng vácxin [5].
Việc chẩn đoán virút học gồm 2 phương pháp: Phân lập virút và chẩn đoán huyết thanh. Phân lập virút chỉ tiến hành ở phòng xét nghiệm có trang thiết bị hiện đại, tốn kém, thời gian quá lâu và nhiều khi không đạt kết quả do đó phải dựa vào chẩn đoán huyết thanh.
Trước năm 1997 chúng tôi thường sử dụng kỹ thuật ức chế ng−ng kết hồng cầu (UCNKHC) để chẩn đoán nhiễm virút viêm não Nhật Bản nên việc chẩn đoán kết quả gặp rất nhiều khó khăn nếu lần trước bị nhiễm một loại virut khác trong nhóm Arbo hay trong cùng một vùng l−u hành từ 2 loại virút trở lên (ví dụ Dengue xuất) và VNNB và phải lấy mẫu 2 lần để tìm động lực KT. Từ tháng 5/1996 cho đến nay chúng tôi đã sử dụng kỹ thuật MAC- ELISA để phát hiện kháng thể IgM kháng virut VNNB trong huyết thanh và dịch não tuỷ của bệnh nhân.
Kỹ thuật MAC-ELISA có độ chính xác cao, cho kết quả nhanh hơn, nhạy hơn và đặc hiệu hơn và có thể chỉ cần lấy máu hoặc dịch não tuỷ một lần. Tuy nhiên nếu lấy máu đ−ợc 2 lần thì tỷ lệ dương tính cao hơn. Mục đích nghiên cứu của chúng tôi nhằm:
1. Đánh giá tình hình mắc VNNB bằng kỹ thuật MAC-ELISA trên những bệnh nhân được chẩn đoán lâm sàng là viêm não nằm điều trị tại bệnh viện Bạch Mai từ 1997 – 2001.
2. Xác định lỷ lệ mắc VNNB theo giới và các nhóm tuổi.
II. đối tượng và phương pháp nghiên cứu
1. Đối tượng:
Chúng tôi tiến hành xét nghiệm 1405 mẫu huyết thanh (HT) của 1159 bệnh nhân (trong đó 913 bệnh nhân có một mẫu huyết thanh đơn
và 246 bệnh nhân có mẫu huyết thanh kép. Những bệnh nhân này đ−ợc chẩn đoán lâm sàng là viêm não và hội chứng não cấp nằm điều trị tại khoa Thần kinh, khoa Cấp cứu, khoa Nhi, viện Y học lâm sàng các bệnh nhiệt đới (chủ yếu là bệnh nhân của khoa Thần kinh) trong thời gian từ tháng 1/1997-12/2001.
2. Phương pháp:
Huyết thanh bệnh nhân: lấy 2ml máu tĩnh mạch không chống đông, ly tâm lấy huyết thanh và bảo quản ở -20oC cho đến khi làm xét nghiệm.
Sử dụng bộ sinh phẩm MAC-ELISA chẩn đoán viêm não Nhật Bản do viện Vệ sinh dịch tễ Trung Ương, Hà Nội sản xuất.
Phương pháp: Theo thường quy làm phản ứng ELISA
– Kết quả đọc trên máy đọc ELISA ở bước sóng 492-620 nm
– Xử lý số liệu theo ch−ơng trình Epiinfo 6.0 của Tổ chức Y tế thế giới.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích