Ứng dụng lâm sàng của keo phẫu thuật lepamed trên động vật

Ứng dụng lâm sàng của keo phẫu thuật lepamed trên động vật

Keo phẫu thuật đã được thế giới sản xuất và sử dụng từ những năm 1940. Trong chiến tranh thế giới thứ 2 được dùng để cầm máu, kết dính vết thương. Từ những năm 1960, trong chiến tranh Việt Nam, quân đội Mỹ đã cũng đã sử dụng keo này để cầm máu tạm thời  cho  thương  binh  trong  khi  chuyển  về bệnh viện tuyến sau [1]. Đa phần keo dính sinh học đều có nguồn gốc  từ cyanoacrylate như  keo  sinh  học  Glubran,  Glubran  2  của Italia, keo dính ngoại khoa Bioglue Surgical Adhesive  (BSA)  của  Mỹ,  hồ  chống  viêm, kháng    khuẩn    dùng    trong    ngoại    khoa sulfacrylate của Nga v.v… Năm 2008, viện Trang thiết bị và Công trình y tế – Bộ Y tế đã sản xuất thành công keo phẫu thuật Lepamed. Thành phần hóa học của keo Lepamed gồm N
–    Butyl  cyanoacrylate  (99,99%),  sulfua  lưu huỳnh và axit acetic.
Bên cạnh tác dụng cầm máu, các keo sinh học còn có tác dụng kết dính các mô, không cần khâu, giúp bệnh nhân rút ngắn thời gian nằm viện do chờ cắt chỉ. Keo cũng giúp cho các bác sĩ bịt các lỗ thủng nhỏ mà không cần khâu, kể cả lỗ thủng giác mạc [2]. Keo hỗ trợ các bác sĩ nội soi dễ dàng thực hiện các thao tác trong phẫu thuật, kể cả những phẫu thuật lớn như nội soi cắt thận [3]. Nếu sử dụng đúng, các vết thương sẽ có sẹo đẹp. Chính vì vậy, keo cũng có thể sử dụng trong các phẫu thuật thẩm mỹ [4].
Ngoài các đánh giá về khả năng kết dính, trước khi đưa vào sử dụng trên người cần phải  có  các  nghiên  cứu  thực  nghiệm  trên động vật. Đề tài “Đánh giá khả năng cầm máu và liền mô của keo phẫu thuật Lepamed trên động vật” nhằm mục tiêu:
1.    Đánh giá khả năng cầm máu.
2.    Đánh giá  khả năng phù hợp mô và liền mô của keo phẫu thuật Lepamed.
II.    VẬT    LIỆU    ĐỘNG    VẬT    VÀ PHƯƠNG PHÁP
1.    Vật liệu
Keo phẫu thuật LEPAMED do Viện trang thiết bị và Công trình y tế – Bộ Y tế (Việt Nam) chế tạo.
2.    Động vật
–    10  thỏ  ta,  giống nội  địa  do  trung  tâm giống dê – thỏ Sơn Tây cung cấp.
–    10 chuột cống trắng do Học viện Quân y cung cấp.
3.    Phương pháp
Nghiên cứu thưc nghiệm không đối chứng trên động vật.
    Chỉ  tiêu  nghiên  cứu  và  kỹ  thuật nghiên cứu
–    Khả năng cầm máu: trên mô mềm (da, tổ chức dưới da): 50 vết thương, trên gan: 10 vết thương.
–    Khả năng phù hợp mô và liền mô ở mức đại thể và vi thể sau 4 tuần thử  nghiệm trên mô mềm ở da, tổ chức dưới da và gan.
–    Kỹ thuật nghiên cứu: quan sát đại thể và vi thể (tiêu bản mô học thường quy).
    Cách thức tiến hành nghiên cứu
3.    2.1. Đánh giá khả năng cầm máu
a.    Trên da và tổ chức dưới da thỏ
–    Cố định thỏ lên bàn mổ.
–    Gây mê qua đường thở bằng ether.
–    Cạo lông, sát trùng, rạch da 2 bên vùng lưng, mỗi bên 2 hoặc 3 vết, dài 2cm, sâu đến hạ bì. Tổng số vết thương nghiên cứu: 50.
–    Thấm khô máu, nhỏ lên mỗi vết thương 1 giọt keo Lepamed,  dàn đều cho keo tiếp xúc với toàn bộ chiều dài của vết thương. Sau 30 giây, dùng kẹp phẫu tích không mấu hoặc các ngón tay ép hai mép vết thương cho kết dính lại với nhau. Theo dõi khả năng cầm máu tại chỗ của keo.
b.    Trên gan: 10 chuột cống trắng
–    5 chuột: xẻ một đường làm đứt  hoàn toàn một phần thùy gan của thỏ,  thấm khô máu, dùng 1 giọt keo lepamed  nhỏ vào rãnh xẻ, ép hai mép gan xẻ vào với nhau.
–    5 chuột: cắt rời hẳn một mẩu gan (1  x 1cm).  Thấm  khô  máu,  dùng  2  giọt   keo lepamed nhỏ lên mặt cắt của phần  gan  còn lại. Dàn đều trên bề mặt.
–    Theo dõi quá trình chảy máu của gan bị xẻ và bị cắt.
    Đánh giá khả năng  liền vết thương ở mức đại thể
–    Đánh giá trên đại thể về khả năng cầm máu và liền vết thương da sau 3,7 và 28 ngày.
    Đánh giá khả năng phù hợp mô và liền mô ở mức vi thể
–    Sau 4 tuần giết thỏ, chuột.
–    Trích thủ vùng mô dính keo.
–    Làm tiêu bản mô học (nhuộm H.E), quan sát  vùng  vết  thương  da,  gan   được   dính bằng keo.
Keo dính phẫu thuật (surgical adhesive glue) hay keo sinh học (bioglue) sử dụng trong ngoại khoa để cầm máu, kết dính vết thương đã được sản xuất và sử dụng phổ biến trên thế giới. Keo phẫu thuật Lepamed do viện Trang thiết bị và Công trình y tế Bộ Y tế Việt Nam chế tạo năm 2008. Trước khi đưa vào sử dụng trên lâm sàng cần phải được thử nghiệm trên động vật.  Đề tài tiến hành nhằm đánh giá khả năng cầm máu và đánh giá khả năng phù hợp mô và liền mô của keo lepamed.  Kết quả cho thấy keo Lepamed có khả năng cầm máu, kết dính và làm liền mô ở da, gan

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment