Ứng dụng một số kỹ thuật y học hạt nhân trong chẩn đoán bệnh ung thư

Ứng dụng một số kỹ thuật y học hạt nhân trong chẩn đoán bệnh ung thư

Chuyên ngành Y học hạt nhân (Nuclear Medicine) là một chuyên ngành tương đối mới của y  học. Trong  những năm qua  nó đã có những bước tiến bộ vượt bậc và đạt được nhiều thành tựu mới trong chẩn đoán và điều trị bệnh nói chung và đặc biệt trong bệnh ung thư.

1. Chẩn đoán bệnh bằng đồng vị phóng xạ (ĐVPX)

Cách đây hơn 60 năm, các đồng vị phóng xạ (ĐVPX) đã được sử dụng cho mục đích chẩn đoán và điều trị.

Nguyên  tắc  chung  của  chẩn  đoán  bệnh bằng đồng vị phóng xạ như sau:

Để đánh giá hoạt động chức năng của một cơ quan, phủ tạng nào đó ta cần đưa vào một loại ĐVPX hoặc một hợp chất có gắn ĐVPX thích hợp, chúng sẽ tập trung đặc hiệu tại cơ quan cần khảo sát. Theo dõi quá trình chuyển hoá, đường đi của ĐVPX này ta có thể đánh giá tình trạng chức năng của cơ quan, phủ tạng cần nghiên cứu qua việc đo hoạt độ phóng xạ ở các cơ quan này nhờ các ống đếm đặt ngoài cơ thể tương ứng với cơ quan cần khảo sát. Ví dụ người ta cho bệnh nhân uống 31II rồi sau những khoảng thời gian nhất định đo hoạt độ phóng xạ ở vùng cổ bệnh nhân, từ đó có thể đánh giá được tình trạng chức năng của tuyến giáp…

Để ghi hình (xạ hình) các cơ quan người ta phải đưa các ĐVPX vào cơ thể người bệnh. Xạ hình  (Scintigraphy)  là  phương  pháp ghi  hình ảnh sự phân bố của các chất phóng xạ ở bên trong các phủ tạng bằng cách đo hoạt độ phóng xạ của chúng từ bên ngoài cơ thể.

Xạ  hình  không chỉ  là  phương  pháp chẩn đoán hình ảnh đơn thuần về hình thái mà nó còn giúp ta hiểu và đánh giá được chức năng của cơ quan, phủ tạng và một số biến đổi bệnh lý khác.

Để ghi hình các cơ quan, ngoài máy scanner (ghi hình tĩnh) người ta còn dùng máy Gamma Camera, SPECT, PET, PET/CT hoặc SPECT/CT.

Bằng kỹ thuật ghi hình   y  học hạt nhân, người ta có thể ghi hình từng cơ quan hoặc ghi hình toàn cơ thể (Whole body scan), kết quả xạ hình sẽ cung cấp cho chúng ta các thông tin về hình ảnh chức năng nhiều hơn hình ảnh về cấu trúc giải phẫu.

2. Điều trị bệnh bằng đồng vị phóng xạ

Để điều trị người ta phải đưa các đồng vị phóng xạ hay dược chất phóng xạ (DCPX) vào cơ thể người bệnh.  Người ta gọi đây là phương pháp điều trị chiếu trong hay còn gọi là điều trị bằng nguồn hở.

Nguyên lý chung của phương pháp điều trị chiếu trong được dựa trên định đề Henvesy: Cơ thể sống không có khả năng phân biệt các đồng vị của cùng một nguyên tố. Điều đó có nghĩa là

khi đưa vào cơ thể sống các đồng vị của cùng một nguyên tố thì chúng cùng tham gia vào các phản ứng sinh học và cùng chịu chung một số phận chuyển hoá. Vì vậy, khi biết một nguyên tố hoá học hoặc một chất nào đó tham gia vào quá trình chuyển hoá ở một mô hoặc một cơ quan nào đó của cơ thể, có thể dùng ĐVPX của nguyên tố hoá học đó hoặc chất đó đưa vào cơ thể. Các ĐVPX (hay còn gọi là thuốc phóng xạ) này sẽ tập trung đặc hiệu tại mô bệnh (mô ung thư, mô cường chức năng…) và phát huy tác dụng điều trị…

Điều trị là dùng năng lượng các tia bức xạ để làm thay đổi chức năng hay huỷ diệt một mô bệnh lý nhất định. Liều điều trị phải lớn gấp hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn lần so với liều chẩn đoán.

Trong nhiều trường hợp, so với các phương pháp điều trị khác thì điều trị bằng các đồng vị phóng xạ là phương pháp điều trị hữu hiệu, nhanh gọn, đơn giản, kinh tế… Chẳng hạn có thể dùng I – 131 để điều trị rất hiệu quả bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể biệt hoá: Sau khi đã phẫu thuật cắt bỏ khối u và tuyến giáp, bệnh nhân được uống I – 131, theo dòng tuần hoàn I – 131 sẽ truy tìm và đọng lại những nơi có tế bào ung thư tuyến giáp hoặc các mô giáp di căn vào bất kỳ vị trí nào cuả cơ thể (vào phổi, xương, não…).  Năng lượng bức xạ beta () của I – 131 sẽ tiêu diệt rất hiệu quả các tế bào ung thư giáp. Sau đó bệnh nhân sẽ được bồi phụ hormon giáp để trở về bình giáp. Rất nhiều bệnh nhân đã khỏi và có thể sinh đẻ và trở về cuộc sống lao động, sinh hoạt bình thường… Ngoài ra, người ta cũng còn dùng I – 131 để điều trị nhiều bệnh khác như cường giáp trạng, Basedow… hoặc sử dụng các đồng vị phóng xạ hướng xương như: Phospho-32 (P-32), Stronti – 89 (89Sr); Samarium

– 153 (153Sm); Rhenium – 188 (188Re) để điều trị

chống đau do ung thư di căn vào xương. Các đồng vị phóng xạ này khi vào cơ thể sẽ theo dòng tuần hoàn và đến các mô xương bị ung thư và phát huy hiệu quả điều trị nhờ vào năng lượng bức xạ beta () của chúng. Hiệu quả điều trị giảm đau sau 1 lần tiêm là từ 3 – 12 tháng, tuỳ theo đồng vị phóng xạ sử dụng…

Hiện nay, chuyên ngành Y học hạt nhân đã có những đóng góp to lớn cho việc chẩn đoán bệnh nói chung và đặc biệt  cho chuyên ngành ung thư. Nhiều kỹ thuật chẩn đoán và điều trị bằng đồng vị phóng xạ đã và đang được áp dụng rất có hiệu quả  ở các bệnh viện trên thế giới. Một trong những ứng dụng đặc biệt quan trọng là kỹ thuật chụp hình phát hiện ung thư bằng máy SPECT, SPECT-CT, PET và PET-CT. Kỹ thuật chụp hình bằng máy PET với khả năng ghi hình ở mức phân tử và mức tế bào đã giúp chúng ta có  khả năng:  Chẩn đoán sớm ung thư; phân loại giai đoạn ung thư; kiểm tra và đánh giá tái phát ung thư; đánh giá hiệu quả của các phương pháp điều trị… Sự phối hợp hình ảnh qua việc chụp hình bằng máy PET- CT  đã làm tăng độ nhạy và độ đặc hiệu của kỹ thuật này cho việc chẩn đoán nhờ  có  được đồng thời  cả  hình ảnh cấu trúc giải  phẫu của CT và  hình ảnh  chức  năng chuyển hoá của PET.
 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment