Ứng dụng một số trắc nghiệm thần kinh tâm lý trong chẩn đoán sa sút trí tuệ ở bệnh nhân nhồi máu não

Ứng dụng một số trắc nghiệm thần kinh tâm lý trong chẩn đoán sa sút trí tuệ ở bệnh nhân nhồi máu não

1.Đề tài nghiên cứu    có hai    Mục tiêu:  Đánh giá    mức    độ suy    giảm    nhận    thức    nhẹ    do  mạch (SGNTNMM) và sa sút trí tuệ do mạch (SSTTMM) sau nhồi máu não lần đầu ở bệnh nhân trên 60 tuổi; ii, Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng của SSTTMM ở nhóm bệnh nhân này qua sử dụng các trắc nghiệm thần kinh tâm lý. Phương pháp nghiên cứu: 94 bệnh nhân được chẩn đoán xác định nhồi máu não lần đầu tuổi từ 60 tuổi trở lên, được làm các trắc nghiệm thần kinh tâm lý sau 1 tháng. Kết quả: 1, Tỉ lệ SGNTNMM và SSTTMM sau nhồi máu não lần đầu tương ứng là 21,3%, và 25,5%; 2, Đặc điểm lâm sàng của SSTTMM là suy giảm chức năng nhận thức tổng quát. Tỉ lệ tổn thương các lĩnh vực khác của nhận thức ở bệnh nhân SSTTMM không giống nhau. Chức năng kiến trúc thị giác bị ảnh hưởng nhiều nhất chiếm tới 65 % số bệnh nhân, tiếp đến là tốc độ vận động thị giác 50% số bệnh nhân. Tổn thương về trí nhớ chỉ chiếm hơn 40% số bệnh nhân (nhớ hình 45,8%, nhớ từ 41,6%). Số bệnh nhân bị tổn thương chức năng thực hiện nhiệm vụ là 37,5%, số bệnh nhân bị suy giảm khả năng ngôn ngữ là 37,5%, khả năng tập trung, chú ý bị tổn thương ít nhất chiếm 25% số bệnh nhân
Từ khóa: Nhồi máu não, sa sút trí tuệ do mạch máu, sa sút trí tuệ, trắc nghiệm thần kinh tâm lý I. ĐẶT ^ VẤN ĐỀ
Tuổi thọ tăng cao, mô hình bệnh tật thay đổi, loài người đang đứng trước nguy cơ gia tăng tỷ lệ các bệnh mạn tính và thoái hoá. Sự thoái hoá của hệ thần kinh gây lên bệnh cảnh rối loạn thần kinh tâm lý mà điển hình là bệnh sa sút trí tuệ (SSTT) và suy giảm nhận thức nhẹ (SGNTN). SSTT có thể do nhiều nguyên nhân như: Sa sút trí tuệ do bệnh Alzheimer sa sút trí tuệ do mạch, sa sút trí tuệ thể Lewy…
Ở các nước đang phát triển, bệnh mạch máu não là nguyên nhân chính dẫn đến SSTT. Sa sút trí tuệ do mạch máu- SSTTMM (VaD:Vascular dementia) là một dạng của suy giảm nhận thức do các nhồi máu não nhỏ hoặc lớn gây nên, về cơ bản tương tự như khái niệm nhồi máu não đa ổ. Thuật ngữ suy giảm nhận thức nhẹ do mạch máu- SGNTNMM (VCI: Vascular Cognitive Impairment) dùng để chỉ những bệnh nhân bị suy giảm nhận thức do nguyên nhân mạch máu mà chưa dẫn đến sa sút trí tuệ. Các nguyên nhân mạch máu của SSTTMM rất hay gặp, có thể phòng tránh và điều trị được. Do vậy việc phát hiện sớm và và chẩn đoán những người có nguy cơ cao bị SSTTMM và SGNTNMM đồng thời cố gắng làm chậm đi sự tiến triển của nó là vấn đề hết sức quan trọng.
Hiện nay dù có nhiều tiến bộ về chẩn đoán hình ảnh và các dấu ấn sinh học, việc chẩn đoán SSTT vẫn chủ yếu dựa vào lâm sàng, trong đó các trắc nghiệm thần kinh tâm lý là công cụ hữu hiệu. Ở Việt nam, gần đây SSTT là bệnh bắt đầu được quan tâm. Một số nghiên cứu dịch tễ học của bệnh đã được tiến hành với việc sử dụng thang điểm đánh giá trạng thái tâm thần tối thiểu MMSE (Mini- Mental State Examination) của Folstein 1975, [7]. Trung tâm nghiên cứu về trí nhớ và sa sút trí tuệ của Viện lão khoa quốc gia, lần đầu tiên đã chuẩn hóa và thử nghiệm bộ trắc nghiệm gồm 12 trắc nghiệm thần kinh tâm lý để chẩn đoán và theo dõi tiến triển của SSTT ở người trên 60 tuổi, [1]. Trong khuôn khổ đề tài này, chúng tôi ứng dụng của bộ trắc nghiệm thần kinh tâm lý này trong chẩn đoán sa sút trí tuệ sau nhồi máu não lần đầu ở bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên nhằm mục tiêu:
1.    Đánh giá mức độ sa sút trí tuệ do mạch và suy giảm nhận thức nhẹ do mạch sau nhồi máu não lần đầu ở bệnh nhân trên 60 tuổi.
2.    Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng của SSTTMM và SGNTNMM ở nhóm bệnh nhân này bằng việc sử dụng các trắc nghiệm thần kinh tâm lý.
II.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.    Địa điểm nghiên cứu: Các nghiên cứu được thực hiện tại bệnh viện Hữu Nghị (khoa Nội A và khoa Thần kinh) và Viện Lão khoa Quốc gia (Trung tâm Nghiên cứu trí nhớ).
2.    Đối tượng nghiên cứu
2.1.    Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
–     94 bệnh nhân được chẩn đoán xác định nhồi máu não cấp lần đầu dựa trên lâm sàng và chụp cắt lớp vi tính hoặc cộng hưởng từ sọ não.
–     Các bệnh nhân đều tỉnh, biết chữ, hợp tác được với bác sĩ trong quá trình khám lâm sàng và làm các trắc nghiệm thần kinh tâm lý.
2.2.    Tiêu chuẩn loại trừ
–     Bệnh nhân có tai biến mạch máu não trước đó; bệnh nhân bị xuất huyết não, có nhồi máu não kèm theo Parkinson hoặc đang có bệnh cấp tính hoặc đợt cấp của bệnh mạn tính; bệnh nhân bị thất ngôn, khiếm khuyết về thị lực, thính lực và không hợp tác đầy đủ; các bệnh nhân có thiếu máu, suy giáp, cường giáp, có khối u hoặc ung thư.
–     Bệnh nhân đã có SGNTN và SSTT trước đó; hoặc có bằng chứng rối loạn trí nhớ trước đó được xác định qua bệnh nhân và người nhà bệnh nhân.
–    Bệnh nhân nghi ngờ trầm cảm hoặc có trầm cảm qua thăm khám sàng lọc trước đó.
2.3.    Các trắc nghiệm thần kinh tâm lý sử dụng trong nghiên cứu
Đánh giá chức năng nhận thức tổng quát: Sử dụng trắc nghiệm đánh giá MMSE của Folstein.
Đánh giá trí nhớ:
+ Nhớ hình ảnh: sử dụng trắc nghiệm trí nhớ hình (Picture Recall): Nhớ hình ngay (Immediate Recall); nhớ hình sau (Delayed Reccall); nhận biết hình muộn (Delayed Recognition).
+ Nhớ lời nói: sử dụng trắc nghiệm nhớ danh sách từ (Word List Recall): nhớ từ ngay (Immediate Recall ); nhờ từ sau (Delayed Reccall) và trắc nghiệm nhận biết từ (Delayed Recognition)
Đánh giá tình trạng ngôn ngữ. Sử dụng trắc nghiệm gọi tên Boston có sửa đổi (Modiííed Boston Naming) và trắc nghiệm nói lưu loát từ.
Đánh giá sự chú ý: Sử dụng các trắc nghiệm đọc xuôi dãy số (Digit Span Forward) và đọc ngược dãy số (Digit Span Backward).
Kiến trúc    thị giác (Visoconstruction):    Sử    dụng    trắc    nghiệm    vẽ    đồng    hồ    (Clock Drawing    Trắc
nghiệm).
Tốc độ vận động thị giác (Visuomotor Speed): Trắc nghiệm gạch bỏ số (Digit Cancellation Task)
Đánh giá chức năng thực hiện nhiệm vụ (Executive function): Sử dụng trắc nghiệm đánh giá chức năng thùy trán (Frontal Assesment Battery- FAB).
Đánh giá trầm cảm: Sử dụng thang trầm cảm lão khoa, thang điểm 20 (Geriatric depression Scale/ GDS- 20).
Đánh giá rối loạn hoạt động hàng ngày: Theo thang điểm đánh giá hoạt động hàng ngày bằng dụng cụ phương tiện (Instrumental Activities of Daily Living Scale/ IADLS) và đánh giá hoạt động hàng ngày (Activities of Daily Living Scale/ ADLS).

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment