Ứng dụng Navigation (hệ thống định vị) trong phẫu thuật u não tại bệnh viện Đại Học Y Hà Nội

Ứng dụng Navigation (hệ thống định vị) trong phẫu thuật u não tại bệnh viện Đại Học Y Hà Nội

Cho đến nay điều trị u não chủ yếu vẫn là phẫu thuật [3, 6, 8], để chọn đường rạch da, mở xương, mở não trước đây dựa vào phim chụp động mạch não sau này là chụp cắt lớp vi tính (CLVT) và cộng hưởng từ (MRI), tuy nhiên rất khó xác định chính xác vị trí khối u cần phẫu thuật nên phẫu thuật viên chọn đường rạch da, đường mở xương đủ rộng bao phủ tổn thương để dễ dàng hơn cho việc lấy u, tuy nhiên nhiều khi khó xác định chính xác vị trí u nên rất khó khăn để lấy u, đặc biệt các khối u nằm sâu trong tổ chức não. Gần đây nhiều trung tâm phẫu thuật thần kinh lớn trong và ngoài nước đã đưa hệ thống định vị (Navigation) vào trong phẫu thuật não. Đây là hệ thống mô phỏng chức năng định vị của các vệ tinh nhân tạo. Với hệ thống này dễ dàng chọn đường mổ nhỏ nhất, chính xác nhất và gần nhất vào khối u. Trong khi mổ, máy sẽ giúp xác định chính xác ranh giới khối u so với não lành, xác định được ranh giới khối u với các tổ chức cơ quan lân cận nên tránh được tổn thương các vùng này. Đặc biệt, với các khối u nhỏ nằm sâu trong tổ chức não, hệ thống này cho phép định vị chính xác vị trí khối u trên hình ảnh không gian ba chiều. Vì vậy, bác sỹ phẫu thuật dễ dàng tiếp cận và lấy bỏ nó mà ít gây tổn thương não nhất [1, 2]. Từ tháng 6/2009 chúng tôi đã đưa hệ thống Navigation ứng dụng vào phẫu thuật u não tại BV Đại học Y Hà Nội, nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật u não dưới sự dẫn đường của hệ thống Navigation. Chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mục tiêu:

Đánh giá kết quả bước đầu ứng dụng Navigation trong phẫu thuật u não tại Bệnh viện Đại Học Y Hà Nội.

I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng nghiên cứu: gồm 32 bệnh nhân

u não được mổ mở. Sử dụng hệ thống định vị Navigation từ tháng 6/2009 đến tháng 3/2010, tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.

2. Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu:

Thu thập các dữ liệu lâm sàng, cận  lâm sàng với mẫu bệnh án được thiết kế sẵn cho tất cả các bệnh nhân.

Kỹ thuật mổ mở, với sự thiết lập, hỗ trợ của Navigation. Sự thiết lập này gồm 4 bước:

+ Bước 1: tất cả các bệnh nhân được chụp MRI não có thuốc đối quang từ với lát cắt mỏng 0,9mm theo mặt phẳng trục từ xương hàm trên đến hết đỉnh đầu.

+ Bước 2: những dữ liệu MRI được vào đĩa và dịch chuyển vào máy vi tính của hệ thống Navigation và hình ảnh này được tái cấu trúc

điểm Karnofski: nhóm I (bình thường hoặc có vài  triệu  chứng  nhưng  vẫn  làm  việc  bình thường), nhóm II (tự lo được những nhu cầu thiết yếu cho bản thân), nhóm III (cần được trợ giúp trong  sinh  hoạt),  nhóm  IV  (tàn  phế  nghiêm trong, hoặc cần hồi sức tích cực).

Số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm SPSS 13.0.

Mục tiêu: đánh giá kết quả bước đầu ứng dụng Navigation trong phẫu thuật u não tại Bệnh viện Đại
Học Y Hà Nội. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: gồm 32 bệnh nhân bị u não được phẫu thuật dưới sự hướng dẫn của Navigation, theo dõi tại trong thời gian từ tháng 6/2009 đến tháng 3/2010. Đánh giá các biểu hiện lâm sàng: đau đầu, nôn, phù gai thị, liệt nửa người, rối loạn tâm thần, động kinh. Sử dụng quy trình Navigation gồm 4 bước (chụp phim, cho dữ liệu vào máy, đăng ký và định vị). Đánh giá kết quả ngay sau mổ: tốt (Glasgow 14 – 15 điểm, không liệt thêm hoặc liệt giảm hơn trước mổ), trung bình (Glasgow 8 – 13 điểm, liệt mới xuất hiện sau mổ, phải mổ lại vì biến chứng), xấu (mê sâu, Glasgow từ 3 – 7 điểm, tử vong). Xác định kết quả giải phẫu bệnh, xác định biến chứng sau mổ sử dụng thang điểm Karnofski để so sánh. Kết quả: tuổi ít nhất là 22, cao nhất là 74, tỷ lệ nam gấp đôi nữ, đau đầu 96,9%, nôn 34,4% và phù gai thị 25%, liệt nửa người 34,4%. Kết quả giãi phẫu bệnh hai loại chiếm nhiều nhất là u tế bào thần kinh đệm chiếm 46,9%, u màng não 28,1%. Kết quả phẫu thuật tốt 93,8%, trung bình 6,2%, không có kết quả xấu. Kết luận: trong phẫu thuật u não, Navigation là thiết bị cung cấp thông tin hình ảnh 3 chiều liên tục, giúp chọn đường mổ nhỏ nhất, chính xác nhất, ngắn nhất vào khối u. Trong quá trình mổ, Navigation liên tục cho ta biết chính xác vị trí dụng cụ làm khả năng lấy u dễ nhất và an toàn nhất có thể.
 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment