ỨNG DỤNG NỘI SOI TRONG PHẪU THUẬT U TUYẾN YÊN TẠI BV ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
ỨNG DỤNG NỘI SOI TRONG PHẪU THUẬT U TUYẾN YÊN TẠI BV ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Kiều Đình Hùng, Nguyễn Tiến Hùng*
TÓM TẮT
Mục tiêu: đánh giá kết quảứng dụng nội soi qua xoang bướmđểphẫuthuậtutuyếnyêntại BệnhViệnĐại
Học Y Hà Nội.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: gồm 15 bệnh nhân bị u tuyến yên được phẫu thuật nội soi qua xoang bướm trong thời gian từ tháng 8/2010 đến tháng 9/2011. Đánh giá các biểu hiện: giảm thị lực, rối loạn nội tiết, vô sinh, vô kinh, chụp cộng hưởng từ, cắt lớp vi tính, xét nghiệm nội tiết. Mổ nội soi hai kíp tai-mũi- họng và phẫu thuật thần kinh. Đánh giá kết quả sau mổ: Tốt: (triệu chứng lâm sàng được cải thiện, xét nghiệm nội tiết giảm trên 50%, phim chụp kiểm tra nhỏ đi hoặc không còn u, không có biến chứng sau mô).Trung bình:(triệu chứng lâm sàng cải thiện không đáng kể, không có biến chứng nặng, chụp kiểm tra còn u) Kém: (tử vong hoặc biến chứng nặng, lâm sàng kém đi, chụp kiểm tra u tái phát nhanh).
Kết quả: 15 bệnh nhân u tuyến yên, bao gồm 8 nữ và 7 nam. Tuôi từ 6-64, trong đó 7 u tăng tiết protactine và 8 u không tăng tiết. Phẫu thuật nội soi qua 1 mũi được thực hiện ở 6 bệnh nhân và qua 2 mũi được thực hiện trên 9 bệnh nhân. Thời gian mổc ít nhất là 1 giờ 30 phút và lâu nhất là 3 giờ. kết quả tốt 14/15 bệnh nhân, kết quả trung bình 1/15 và không có kết quả xấu.
Kết luận: Phẫu thuật nội soi u tuyến yên là phẫu thuật an toàn và hiệu quả, có nhiều ưu điểm so với phẫu thuật vi phẫu như ánh sang tốt hơn, quan sát dễ hơn và nhìn được các vị trí mà vi phẫu không quan sát được, tuy nhiên phải có kỹ năng riêng khi phẫu thuật nội soi vì nó khác với kỹ thuật vi phẫu thông thường
ĐẶT VẤN ĐỀ
U tuyên yên chiếm từ 5-15% các khối u trong sọ, chẩn đoán không khó nhờ các dấu hiệu lâm sàng về nội tiết, mắt và cận lâm sàng như chụp cắt lớp vi tính (CLVT) và cộng hưởng từ (CHT). Điều trị cần phối hợp nhiều chuyên khoa như phẫu thuật nội tiết và xạ trị, nhưng phẫu thuật vẫn là chủ yêu. Phẫu thuật u tuyên yên được thực hiện đầu tiên bởi Horsley năm 1889 mổ qua trán, năm 1907 Scholoffer mổ qua mũi. Năm 1959 Guiot và Thibaut mổ qua xoang bướm và năm 1969 Hardy đã sử dụng kính hiển vi phẫu thuật và đã trở thành phương pháp chủ yêu điều trị loại bệnh lý này. Tuy nhiên kính vi phẫu cũng có nhược điểm là đường vào u tuyên yên hẹp và sâu nên ánh sáng yêu khó khăn cho việc lấy u. Gần đây nhiều trung tâm phẫu thuật thần kinh trên thê giới đã sử dụng nội soi phẫu thuật có nhiều ưu điểm như ánh sáng tốt, quan sát rõ ràng hơn làm tang khả năng lấy u va giảm các biên chứng. Từ tháng 8/2011 tại bệnh viện Đại học Y Hà nội chúng tôi đã sử dụng nội soi qua xoang bướm để phẫu thuật u tuyên yên, nhằm đánh giá hiệu quả của phẫu thuật này chúng tôi nghiên cứu đề tài (Ứng dụng nội soi qua xoang bướm trong phẫu thuật u tuyên yên) nhằm mục đích:
Ứng dụng phẫu thuật nội soi qua xoang bướm trong điều trị u tuyên yên.
Đánh giá hiệu quả bước đầu điều trị u tuyên yên bằng phẫu thuật nội soi.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất