ỨNG DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT PCR ĐA MỒI TRONG PHÁT HIỆN SÁN LÁ GAN LỚN FASCIOLA GIGANTICA Ở ỐC LYMNAEA VIRIDIS Ở CÁC GIAI ĐOẠN ẤU TRÙNG KHÁC NHAU

ỨNG DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT PCR ĐA MỒI TRONG PHÁT HIỆN SÁN LÁ GAN LỚN FASCIOLA GIGANTICA Ở ỐC LYMNAEA VIRIDIS Ở CÁC GIAI ĐOẠN ẤU TRÙNG KHÁC NHAU

 Kỹ thuật PCR đa mồi được sử dụng để phát hiện mầm bệnh sán lá gan lớn (SLGL)  Fasciola gigantica  ở ốc Lymaeids vật chủ trung gian ở Việt Nam. Trong nghiên cứu này, gây nhiễm thực nghiệm loài ốc  Lymnaea viridis  với SLGL  F.giantica  để sử dụng cho phản ứng PCR đa mồi. Nhân lên mồi đặc hiệu  Fasciola ở độ dài 124 bp, trong khi đó, mồi ốc nhân lên ở độ dài khoảng 500  –  600 bp. Mẫu đối chứng dương sử dụng ADN của sán, còn mẫu đối chứng âm sử dụng ADN của ốc không nhiễm sán lá gan. Kỹ thuật này sẽ sử dụng để đánh giá chính xác sự lan truyền bệnh SLGL ở vật chủ trung gian ốc tại Việt Nam.Bệnh sán lá gan lớn (Fascioliasis) là bệnh ký sinh trùng gây ra bởi hai loài sán láFasciola hepatica và Fasciola gigantica, bệnhphổ biến ở người và gia súc. Trong vòng đời phát triển của SLGL, ốc nước ngọt thuộc họLymnaeidae là vật chủ trung gian truyềnbệnh SLGL [9]. Ở Việt Nam, có nhiều công trình công bố hai loài ốc  Lymnaea viridis  và Lymnaea swinhoei  đều nhiễm SLGL [2, 3, 4, 6, 7]. Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm SLGL ở ốc củacác tác giả công bố hoàn toàn trái ngược nhau.

Một số tác giả công bố tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan tương đối cao ở ốc, dao động từ 14 – 71% [4, 6, 7]; ngược lại, hầu hết các tác giả công bố tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở ốc rất thấp, chỉ dao động từ 0,06  – 4,75% [2, 3, 5]. Các công trình chỉ mới cống bố tỷ lệ nhiễm, mà không đưa ra hình ảnh ấu trùng sán lá gan phát hiện ở ốc, chỉ có Vũ Đức Hạnh (2009) [7] và Phạm Ngọc Doanh và CS (2012) [5] có đăng hình ảnh ấu trùng của sán. Tuy nhiên, hai hình ảnh của hai tác giả hoàn toàn khác nhau thuộc hai giống sán khác nhau. Vũ Đức Hạnh (2009) đăng tải ảnh ấu trùng sán không phải của Fasciola mà thuộc giống Echinostoma. Các tác giả trước đây chỉ sử dụng phương pháp kiểm tra ốc thường quy bằng cách ép ốc giữa hai tấm kính và kiểm tra ấu trùng sán dưới kính núp. Phương pháp này đòi hỏi phải có kinh nghiệm nhận biết ấu trùng sán lá gan chính xác mới đưa ra kết quả chính xác về tỷ lệ nhiễm. Gần đây, Bùi Thị Dung và CS (2011) [1] đã công bố công trình so sánh hai phương pháp PCR đa mồi và phương pháp ép ốc, thấy: phương pháp PCR đa mồi cho kết quả chính xác hơn về tỷ lệ nhiễm SLGL ở ốc. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ phân tích trên mẫu ốc thu ngoài tự nhiên. Nhằm xác định xem có sự khác biệt hay không trong sử dụng phương pháp PCR đa mồi để dò tìm ấu trùng SLGL ở ốc ở các giai đoạn phát triển khác 
nhau, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: Ứng dụng và phát triển kỹ thuật PCR đa mồi trên ốc nhân nuôi và gây nhiễm thực nghiệm.

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment