UNG THƯ SAU GHÉP THẬN: NHÂN MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP ĐƯỢC THEO DÕI TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
UNG THƯ SAU GHÉP THẬN: NHÂN MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP ĐƯỢC THEO DÕI TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Dư Thị Ngọc Thu*, Hoàng Khắc Chuẩn*, Nguyễn Thị Thái Hà*, Thái Minh Sâm*, Trần Ngọc Sinh*
TÓM TẮT :
Đặt vấn đề: Ghép thận là một trong các phương pháp điều trị thay thế tối ưu cho những bệnh nhân bị suy thận mạn giai đoạn cuối (STMGĐC). Nhưng đồng thời sau ghép thận người bệnh phải sử dụng thuốc ức chế miễn dịch (UCMD) và phải luôn đối mặt với nhiều tác dụng phụ của thuốc và những biến chứng của chúng, đặc biệt là các loại ung thư. Điều trị bệnh ung thư, ngoài việc phẫu thuật cắt bỏ khối bướu, tùy theo loại ung thư, người bệnh còn phải trãi qua những liệu pháp điều trị hỗ trợ sau phẫu thuật: xạ trị, hóa trị…. Tác dụng phụ của xạ và hóa trị kết hợp với các thuốc UCMD sẽ làm tăng nguy cơ tử vong cho người bệnh sau ghép cơ quan. Do đó, sử dụng thuốc UCMD như thế nào để hạn chế các biến chứng sau ghép là điều mà tất cả Thầy thuốc cần phải quan tâm.
Tư liệu và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu những trường hợp bị ung thư được theo dõi sau ghép thận tại bệnh viện Chợ Rẫy (BVCR) từ 12/1992-5/2012. Chia làm 2 nhóm: nhóm ghép tại BVCR và nhóm ghép từ các trung tâm khác. Khảo sát công thức thuốc UCMD và liều dùng, thời gian phát hiện bướu, cách xử trí sau phẫu thuật, kết quả điều trị.
Kết quả: Từ 12/1992-5/2012 có 540 TH đến theo dõi sau ghép tại BVCR gồm có: 250/540 TH (46,3%) ghép tại BVCR và 290/540 TH (53,7%) ghép từ các trung tâm khác trong và ngoài nước. 16/540 TH (2,96%) phát hiện ung thư sau ghép gồm 3/16 TH (18,75%) ghép tại BVCR và 13/16 TH (81,25%) ghép từ nơi khác. 9/16 TH (56,25%) nữ và 7/16 TH (43,75%) nam. Tuổi trung bình là 45,56±11,24 tuổi (lớn nhất 68, nhỏ nhất 25 tuổi). Thời gian trung bình phát hiện bệnh sau ghép là 6,7±3,9 năm (lâu nhất 14, sớm nhất 2 năm). Các loại thuốc UCMD thường sử dụng sau ghép là Steroids / Sandimmun Neoral / Tacrolimus / Azathioprine / Mycophenolate Mofetil. Thuốc UCMD dẫn nhập của nhóm từ các trung tâm khác đến thì không rõ loại, của nhóm ghép tại BVCR là Daclizumab (hàng tặng 2002) hay Basiliximab (thường qui từ 2004 đến nay), trước 2002 không có thuốc. Điều trị ung thư chủ yếu là phẫu thuật kết hợp với hóa trị hay xạ trị. Kết quả tử vong 11/16 TH (68,75%).
Kết luận: Sau ghép người bệnh phải sử dụng lâu dài các loại thuốc UCMD được khuyến cáo là có khả năng phát sinh ung thư sau ghép. Tỉ lệ ung thư sau ghép cao hay thấp còn tùy thuộc vào sự đáp ứng của từng người bệnh khác nhau với thuốc. Điều trị ung thư sau ghép càng khó khăn hơn trên cơ địa suy giảm miễn dịch và vì thế sẽ làm gia tăng tỉ lệ tử vong.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất