ƯU ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP CẮT ĐỐT NỘI SOI LẤY NGUYÊN KHỐI BƯỚU BÀNG QUANG BẰNG ĐIỆN LƯỠNG CỰC

ƯU ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP CẮT ĐỐT NỘI SOI LẤY NGUYÊN KHỐI BƯỚU BÀNG QUANG BẰNG ĐIỆN LƯỠNG CỰC

ƯU ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP CẮT ĐỐT NỘI SOI LẤY NGUYÊN KHỐI BƯỚU BÀNG QUANG BẰNG ĐIỆN LƯỠNG CỰC
Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng1, Nguyễn Thanh Mộng1, Trần Trọng Huân1
TÓM TẮT :
Đặt vấn đề: Trong nhiều năm qua phương pháp cắt đốt nội soi qui ước (TURBT) được xem là tiêu chuẩn trong điều trị ung thư bàng quang không xâm lấn cơ. Tiêu chí cốt lõi để xác định phẫu thuật đã cắt hết bướu bàng quang là có cơ chóp bàng quang trong mẫu bướu cắt được, điều này nhiều khi không đạt được bởi những hạn chế của phương pháp cắt đốt qui ước. Hơn một thập kỷ qua với nhiều công trình nghiên cứu ngoài nước thực hiện phương pháp cắt đốt nội soi lấy nguyên khối bướu bàng quang (ERBT) chứng minh ưu điểm vượt trội so với phương pháp cắt đốt nội soi qui ước về khía cạnh cung cấp mẫu mô đạt chất lượng, tạo thuận lợi cho việc chẩn đoán đúng giai đoạn bệnh.

Mục tiêu: Xác định tỉ lệ cắt hết bướu thành công được chứng minh bằng sự hiện diện cơ bàng quang trong mẫu bướu cắt được. Xác định tỉ lệ tai biến, biến chứng của phương pháp cắt đốt nội soi lấy nguyên khối bướu bàng quang bằng điện lưỡng cực.

Dối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Cắt tiến cứu mô tả 47 bệnh nhân (BN) bướu bàng quang nông nhập viện và điều trị tại bệnh viện (BV) Bình Dân từ tháng 10/2019 đến tháng 4/2020. Tất cả BN trên được cắt đốt nội soi lấy nguyên khối bướu bàng quang bằng điện lưỡng cực. Thăm khám, phỏng vấn trực tiếp và ghi nhận kết quả xét nghiệm từ hồ sơ bệnh án để thu thập các thông tin lâm sàng, cận lâm sàng theo bảng câu hỏi cấu trúc. Tần số, tỉ lệ, số trung bình được đo lường bằng phần mềm SPSS 16.0.

Kết quả: 47 BN được cắt đốt nội soi bướu bàng quang nông bằng điện lưỡng cực lấy nguyên khối bướu (ERBT). Tuổi trung bình là 57,68 tuổi, nam chiếm ưu thế (74,5%) hơn nữ (24,5%). Nhóm bướu gặp nhiều nhất là 1 bướu chiếm 83,0%, kích thước bướu trung bình là 1,96 (cm). Kết quả giải phẫu bệnh với 100% trường hợp đều có cơ bàng quang trong mẫu bướu cắt được, tất cả đều chẩn đoán được giai đoạn bệnh ngay sau lần phẫu thuật đầu tiên, không có trường hợp nào phải cắt đốt lần 2 do không chẩn đoán được giai đoạn. Một trường hợp chảy máu sau khi bệnh nhân xuất viện được 2 ngày được đều trị nội khoa bảo tồn. Không có trường hợp thủng bàng quang trong phẫu thuật, không có trường hợp nào nhiễm khuẩn đường tiết niệu sau phẫu thuật.

Kết luận: Lợi ích lớn nhất của phương pháp ERBT cho đến thời điểm hiện tại là cung cấp mẫu mô có chất lượng, giúp cho nhà giải phẫu bệnh chẩn đoán được bệnh và giai đoạn bệnh ngay lần phẫu thuật đầu tiên, giảm số trường hợp cắt đốt lần 2 không đáng có và tai biến, biến chứng cũng như chi phí điều trị phát sinh.

ƯU ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP CẮT ĐỐT NỘI SOI LẤY NGUYÊN KHỐI BƯỚU BÀNG QUANG BẰNG ĐIỆN LƯỠNG CỰC

Leave a Comment