VAI TRÒ CỦA IVABRADINE TRONG PHỐI HỢP ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP ĐÃ CAN THIỆP ĐỘNG MẠCH VÀNH QUA DA

VAI TRÒ CỦA IVABRADINE TRONG PHỐI HỢP ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP ĐÃ CAN THIỆP ĐỘNG MẠCH VÀNH QUA DA

Vai trò của Ivabradine đã được chứng minh trên đối tượng bệnh động mạch vành (ĐMV) ổn định, tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào trên bệnh nhân nhồi máu cơ tim (NMCT) cấp đã can thiệp ĐMV qua da. Mục tiêu của đề tài nhằm nghiên cứu hiệu quả và những tác dụng không mong muốn của Ivabradine trong phối hợp điều trị bệnh nhân NMCT cấp đã can thiệp ĐMV qua da. Kết quả cho thấy phối hợp Ivabradine làm giảm tần số tim sau 1 tuần, cải thiện tình trạng đau ngực, mức độ khó thở sau 1 tháng (p < 0,01), làm giảm nguy cơ biến cố tim mạch chính, tái nhập viện do suy tim sau 12 tuần so với nhóm điều trị theo quy chuẩn. Ivabradine dung nạp tốt và an toàn. Kết luận: phối hợp Ivabradine làm cải thiện chất lượng cuộc sống và tiên lượng ở bệnh nhân NMCT cấp đã can thiệp ĐMV qua da.

NMCT cấp là một cấp cứu nội khoa với nhiều biến chứng nguy hiểm. Mặc dù đã có những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị, nhưng bệnh vẫn có tiên lượng nặng, tỷ lệ tử vong cao [2, 4, 10]. Nhiều nghiên cứu cho thấy việc giảm tần số tim không chỉ nhằm điều trị NMCT cấp mà còn ngăn ngừa biến chứng, cải thiện tiên lượng, mang lại lợi ích lâu dài cho bệnh nhân [9, 10]. Thuốc chẹn beta giao cảm làm giảm tần số tim được chỉ định trong vòng 24 giờ đầu cho tất cả các bệnh nhân NMCT cấp. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân có chống chỉ định sử dụng thuốc chẹn beta giao cảm như suy tim, giảm cung lượng tim, block nhĩ thất độ 2 – 3, hen phế quản,… Ivabradine là thuốc làm giảm nhịp tim một cách chuyên biệt, đã được nhiều nghiên cứu lớn trên thế giới chứng minh tác dụng [8], tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào trên đối tượng NMCT cấp đã can thiệp ĐMV qua da. Do đó đề tài được thực hiện nhằm mục tiêu:
Nghiên cứu hiệu quả của Ivabradine trong phối hợp điều trị bệnh nhân NMCT cấp đã can thiệp ĐMV qua da (so sánh với nhóm điều trị quy chuẩn).
Đánh giá những tác dụng không mong muốn của Ivabradine trong phối hợp điều trị cho các bệnh nhân trên.
II.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1.    Đối tượng
–    Bao gồm 158 bệnh nhân được chẩn đoán xác định NMCT cấp theo tiêu chuẩn của ESC/ ACC 2007 (Hội Tim mạch châu Âu và Trường môn Tim mạch Hoa Kỳ) [4], đã được can thiệp ĐMV qua da, và có điện tâm đồ sau can thiệp là nhịp xoang, với tần số  tim ≥ 70 lần/phút, nằm điều trị nội trú tại  Viện Tim mạch Quốc gia  Việt  Nam  từ  tháng  10/2010  đến  tháng 3/2011. Các bệnh nhân được chia làm 2 nhóm:
+ Nhóm phối hợp: điều trị theo khuyến cáo của Hội tim mạch học Việt Nam 2008 [3], đồng thời được dùng Ivabradine theo quy trình.
+ Nhóm quy chuẩn: điều trị theo khuyến cáo của Hội tim mạch học Việt Nam 2008.
–    Tiêu chuẩn loại trừ: có các rối loạn nhịp tim  (rung  nhĩ,  rối  loạn  nhịp  thất,  block  nhĩ thất,…), được đặt máy tạo nhịp tim, đang có bệnh lý nội khoa khác làm tăng nhịp tim (thiếu máu, nhiễm trùng, basedow,…), suy gan, suy thận nặng,…
2.    Phương pháp
–    Phương pháp: nghiên cứu thử  nghiệm lâm sàng có so sánh với nhóm chứng.
–    Quy  trình  dùng  Ivabradine:  Ivabradine 5mg x 2 lần/ngày trong 1 tuần. Sau 1 tuần nếu nhịp tim lúc nghỉ ≥ 70 lần/phút thì được tăng liều ivabradine lên 7,5mg x 2 lần/ngày, từ 50- 69 lần/phút thì  giữ nguyên liều 5mg x 2 lần/ ngày, nếu nhịp tim < 50 lần/phút hoặc có triệu chứng  do chậm nhịp tim thì ngừng sử dụng ivabradine.
–    Các  bước  tiến  hành  và  các  thông  số nghiên cứu:
+ Bệnh nhân được khám, làm xét nghiệm đầy đủ (sinh hóa máu, điện tâm đồ, siêu âm tim), các thông tin được ghi nhận theo mẫu bệnh án nghiên cứu.
+ Các bệnh nhân đều được điều trị nội khoa tối ưu theo đúng khuyến cáo của Hội tim mạch học Việt Nam 2008, được chụp và can thiệp ĐMV qua da, chia ngẫu nhiên thành hai nhóm: Nhóm phối hợp và nhóm điều trị theo quy chuẩn.
+ Trong 7 ngày đầu tiên của nghiên cứu bệnh nhân được theo dõi, đánh giá tần số tim lúc nghỉ mỗi ngày, điều chỉnh liều thuốc theo đúng quy trình.
+ Sau 1 tháng bệnh nhân được hẹn tái khám, kiểm tra các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng. Trong thời gian nghiên cứu bệnh nhân được theo dõi các tác dụng phụ có thể gặp do dùng thuốc (triệu chứng nhịp chậm, lóa mắt,…).
+ Thống kê trong thời gian 12 tuần kể từ lúc bắt đầu nghiên cứu: các biến cố tim mạch bao gồm tử vong do tim mạch, tái nhập viện do NMCT cấp hay ĐTNKÔĐ, tái nhập viện do
suy tim, các biến cố khác.
–    Các số liệu của nghiên cứu được  phân tích bằng phần mềm SPSS 16.0, sử dụng các thuật toán thống kê y học

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment